Vật nuôi cây trồng khác
Nuôi trùn quế xử lý phân đại gia súc và tạo nguồn thức ăn khoái khẩu cho “lươn”

Nuôi trùn quế vừa xử lý được chất thải từ phân gia súc gia cầm, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường mà còn chuyển hóa từ phân gia súc, gia cầm khó tiêu thành phân hữu cơ cao cấp cho cây trồng, cùng với việc tạo ra một lượng thức ăn đạm động vật từ trùn cung cấp cho chăn nuôi và thủy sản, đặc biệt trùng quế là nguồn thức ăn rất tốt cho lươn nuôi. Như vậy, ta thấy rằng nuôi trùn quế là thực hiện một việc làm nhưng mang lại 3 lợi ích.

Trùn quế thuộc nhóm trùn ăn phân, thường sống trong môi trường có nhiều chất hữu cơ đang phân hủy, là một trong những giống trùn đã được thuần hoá, nhập nội và đưa vào nuôi công nghiệp với các quy mô vừa và nhỏ tại nước ta hiện nay. Đây là loài trùn mắn đẻ, xuất hiện rải rác ở vùng nhiệt đới, dễ bắt bằng tay, vì vậy rất dễ thu hoạch.

Trùn quế trưởng thành có kích thước từ 10 – 15 cm, nước chiếm khoảng 80 – 85%, chất khô khoảng 15 – 20%. Hàm lượng các chất (tính trên trọng lượng chất khô) như sau: Protein: 68 –70%, Lipid: 7 – 8%, chất đường: 12 –14 %, tro 11 – 12%.
Do có hàm lượng Protein cao nên Trùn quế được xem là nguồn dinh dưỡng bổ sung quý giá cho các loại gia súc, gia cầm, thủy hải sản… Ngoài ra, Trùn quế còn được sử dụng trong y học, công nghệ chế biến thực phẩm, thức ăn gia súc…
Phân trùn là loại phân hữu cơ sinh học có hàm lượng dinh dưỡng cao, thích hợp cho nhiều loại cây trồng, không gây ra tình trạng “sốc” phân, điều kiện dự trữ dễ dàng, đặc biệt thích hợp cho các loại hoa kiểng, làm giá thể vườn ươm và là nguồn phân thích hợp cho việc sản xuất rau sạch.
Trên thị trường hiện nay mỗi kg trùn thịt có giá từ 35 – 40 ngàn đồng và giá phân trùn 800 – 1.000đ/kg. Thiết nghĩ, bà con chăn nuôi chỉ cần nắm bắt được kỹ thuật nuôi dưỡng, chăm sóc và tận dụng thời gian nhàn rỗi thì có thể nuôi trùn quế thành công, tăng thêm thu nhập cho gia đình.
Trùn quế có kích thước tương đối nhỏ, thân hơi dẹp, có màu từ đỏ đến màu mận chín (tùy theo tuổi), màu nhạt dần về phía bụng, hai đầu hơi nhọn. Cơ thể trùn có hình thon dài nối với nhau bởi nhiều đốt. Khi di chuyển, các đốt co duỗi kết hợp các lông tơ phía bên dưới các đốt bám vào cơ chất đẩy cơ thể di chuyển một cách dễ dàng.
Trùn quế hô hấp qua da, hấp thu Oxy và thải CO2 trong môi trường, Trùn  nuốt thức ăn bằng môi ở lỗ miệng, lượng thức ăn mỗi ngày được nhiều nhà khoa học ghi nhận là tương đương với trọng lượng cơ thể của nó. Phân chúng thải ra rất giàu dinh dưỡng và những vi sinh vật cộng sinh có ích trong hệ thống tiêu hóa theo phân ra khỏi cơ thể trùn nhưng vẫn còn hoạt động trong một thời gian dài. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho phân trùn có hàm lượng dinh dưỡng cao và có hiệu quả cải tạo đất tốt hơn dạng phân hữu cơ phân hủy bình thường trong tự nhiên.
Trùn quế rất nhạy cảm, chúng phản ứng mạnh với ánh sáng, nhiệt độ và biên độ nhiệt cao, độ mặn và điều kiện khô hạn. Nhiệt độ thích hợp nhất với Trùn quế nằm trong khoảng từ 20 – 30oC, ở nhiệt độ khoảng 30oC, pH ổn định và vào khỏang 7.0 – 7.5 và độ ẩm  khoảng 70% rất thích hợp cho chúng sinh trưởng và sinh sản. Khi nhiệt độ luống nuôi và môi trường quá thấp hoặc quá cao hay trong điều kiện khô và nhiều ánh sáng chúng sẽ ngừng hoạt động và có thể chết.
Trùn quế thích nghi với phổ thức ăn khá rộng, chúng ăn bất kỳ chất thải hữu cơ nào có thể phân hủy trong tự nhiên (rác đang phân hủy, phân gia súc, gia cầm…). Tuy nhiên, những thức ăn có hàm lượng dinh dưỡng cao sẽ hấp dẫn chúng hơn, giúp cho chúng sinh trưởng và sinh sản tốt hơn. Theo nhiều tài liệu điều kiện khí hậu của khu vực phía Nam, từ một cặp ban đầu trong điều kiện sống thích hợp có thể tạo ra từ 1.000 –1.500 cá thể trong một năm.
Trùn quế là sinh vật lưỡng tính, chúng có đai và các lỗ sinh dục nằm ở phía đầu của cơ thể, có thể giao phối chéo với nhau để hình thành kén ở mỗi con, mỗi kén mang từ 1 – 20 trứng và có thể nở từ 2 – 10 con.
Khi mới nở, trùn con nhỏ như đầu kim có màu trắng, dài khoảng 2 – 3mm, sau 5 – 7 ngày cơ thể chúng sẽ chuyển dần sang màu đỏ và bắt đầu xuất hiện một vằn đỏ thẫm trên lưng. Khoảng từ 15 –30 ngày sau trưởng thành có màu mận chín và có sắc ánh kim trên cơ thể. Để nuôi trùn quế đạt hiệu quả, cần chú ý một số vấn đề sau:
1. Luống trại nuôi:
Luống hoặc trại nuôi phải đặt nơi thoáng mát, không bị ngập úng và không bị ánh sáng chiếu trực tiếp, có nguồn nước trung tính và sạch tưới thường xuyên, thoát nhiệt, thoát nước tốt. Bảo đảm các điều kiện về nhiệt độ và độ ẩm, ngăn ngừa các thiên địch (gà, vịt, kiến, cóc, nhái..)
2. Chất nền:
Chất nền xốp, kết cấu tương đối thô, có khả năng giữ ẩm tốt, không gây phản ứng nhiệt, pH không nằm ngoài phổ chịu đựng của trùn. Trước khi thả trùn giống ta dùng phân trâu, bò tươi hoặc các loại phân gia súc gia cầm, chất thải thực vật đã được ủ trãi lên nền lớp dầy 3 – 4 phân rồi sau đó mới thả trùn giống.
3. Trùn giống:
Ta nên dùng Trùn giống sinh khối, bởi vì sẽ ít gây sốc cho trùn đồng thời trong sinh khối có rất nhiều trứng, kén. Khi thả nuôi không bao lâu chúng sẽ nở con, mau thu hoạch lần đầu hơn thả giống trùn tinh. Thông thường thả giống trùn sinh khối từ 15 – 20kg/ m2 và sau 1 tháng có thể thu hoạch lần đầu.
4. Thức ăn:
Thức ăn là chất thải hữu cơ ở dạng đang phân hủy, không nên có hàm lượng muối và amoniac quá cao, chủng loại tương đối đa dạng nhưng thích hợp nhất là phân trâu, bò tươi hoặc ủ, hay những loại phân gia súc gia cầm khác, chất thải hữu cơ thực vật có tỷ lệ C/N vào khoảng 10:1. Chú ý chỉ nghững loại phân gia súc ăn cỏ như trâu, bò… mới có thể dùng tươi, còn những loại phân gia súc gia cầm khác phải qua giai đoạn ủ.
Khi cho ăn, có thể bố trí thức ăn thành những luống nhỏ xen kẽ nhau hoặc đổ thành từng cụm. Lượng thức ăn tùy thuộc vào mật số Trùn, thông thường lượng thức ăn tiêu thụ một ngày tương đương lượng trùn hiện có trong luống. Để có nguồn phân chuyển hóa tương đối hoàn toàn nên chú ý chỉ bổ sung thức ăn cho luống khi thức ăn cũ đã được trùn ăn hết.
5. Về độ ẩm:
Phải tưới giữ ẩm ngay từ khi mới thả giống vì Trùn đã bị sốc khi di chuyển, hàng ngày kiểm tra độ ẩm và tưới bổ sung, tốt nhất là tưới nhiều lần trong ngày khi trời nóng, lượng nước cho mỗi lần tưới ít. Nếu sử dụng chất nền có kết cấu hạt xốp và to thì độ ẩm có thể duy trì ở mức cao và ngược lại.
Trong điều kiện khô nóng cũng nên duy trì ẩm độ cao. Nước tưới nên có pH trung tính, không nhiễm hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, mặn hoặc phèn.
Ngọc Hà



CÁC TIN KHÁC: