Trồng Trọt
| |||||||||||
Một số phương pháp xử lý bã thải sau khi trồng nấm (bào ngư, nấm linh chi, nấm rơm)
Ngành sản xuất nấm
đã hình thành và phát triển từ lâu trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói
riêng. Nghề trồng nấm không những mang lại thu nhập mà còn góp phần giải quyết
vấn đề môi trường do phế phụ liệu nông nghiệp tạo ra. Sản phẩm của nghề trồng nấm
không chỉ bổ sung nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng mà còn có chức năng điều trị
một số bệnh ở người. Tại
vùng đồng bằng Sông Cửu Long, người dân trồng nấm ngày càng nhiều do hiệu quả
kinh tế mang lại khá cao, đảm bảo được thu nhập cũng như tận dụng thời gian
nhàn rỗi để trồng nấm. Tuy nhiên, nghề trồng nấm cũng tạo ra một sản lượng bã
thải không nhỏ. Thông thường, người dân chỉ để bã thải nấm hoai mục tự nhiên
kéo dài vài tháng đến vài năm sau đó bón trực tiếp cho cây mà không qua xử lý
nên hiệu quả thấp. Ở một số cơ sở sản xuất lớn, lượng bã thải để tồn đọng quá
nhiều gây ảnh hưởng xấu đến môi trường, thẩm mỹ, cảnh quan nông thôn và ảnh hưởng
đến sức khỏe của người dân. Vì vậy, các phương pháp xử lý bã thải sau đây sẽ
giúp bà con trồng nấm sử dụng hiệu quả nguồn phế phẩm này, đồng thời giảm thiểu
được ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. I. Phương pháp sử dụng bã thải trồng nấm rơm làm phân hữu
cơ vi sinh sử dụng như phân bón cho cây trồng. Nguyên liệu: Chủ yếu là rơm rạ, vỏ đậu hoặc lục bình,
thành phần chính của nó là cellulose. Sau quá trình sử dụng để trồng nấm thì
các nguyên liệu này đã bị phân hủy một phần, hàm lượng Cacbon tổng số khá cao
(20 – 30%) so với hàm lượng Nitơ tổng số giảm đáng kể (0,3 – 0,5%), vì vậy cần
bổ sung đạm vào trong quá trình ủ để cân bằng tỷ lệ C/N thích hợp cho cây trồng.
Bên cạnh đó, độ ẩm của đống ủ phải đạt khoảng 60 – 70% để các vi sinh vật phân
hủy được cơ chất này. Nguyên vật liệu để xử lý bã thải sau trồng nấm bao gồm: Phân urê (50g/m3),
xác bã thực vật đã được phơi héo (rơm rạ, vỏ đậu, lục bình,…), chế phẩm
Trichoderma (30g/m3), dung dịch vi khuẩn cố định đạm – phân giải lân
(1 lít/m3) và bạt nhựa (không dùng nylon trong). Phương pháp thực hiện: Bã thải được làm ẩm
trước một ngày, xếp thành lớp khoảng 20cm sau đó tưới nấm Trichoderma, dung dịch
vi khuẩn cố định đạm – phân giải lân và phân urê; tiếp tục xếp lớp đến khi đống
ủ đạt chiều cao 1,2 – 1,5m. Sau mỗi lớp nên dùng chân đạp để đống ủ được nén dẽ;
tưới nước vừa đủ ẩm, dùng bạt nhựa phủ và chèn kỹ đống ủ để giữ ẩm; đặc biệt
trong mùa mưa phải đánh rãnh xung quanh đống ủ để thoát nước; thường xuyên kiểm
tra nhiệt độ và độ ẩm, nếu nhiệt độ trên 50oC và ẩm độ 40 – 60% (nhiệt
độ cao và ẩm độ thấp) thì cần bổ sung thêm nước và urê. Thời gian ủ trung bình
từ 1,5 – 2 tháng (rơm và lục bình chỉ cần 1 tháng) và mỗi mét khối phân đã ủ hoai
mục bón cho 300 – 500m2 lúa, rau màu hoặc 10 – 20 gốc cây ăn trái
trưởng thành. Lợi ích: Sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ bã thải
rơm rạ có thể chủ động được nguồn phân hữu cơ thường xuyên trong việc sản xuất
lúa, rau màu, nâng cao độ phì nhiêu của đất; đồng thời hạn chế tối đa ô nhiễm
môi trường, giảm một phần chi phí trong sản xuất và tăng thêm nguồn thu nhập
cho bà con nông dân (Viện Nghiên cứu và Phát triển công nghệ sinh học của Trường
Đại học Cần Thơ). II. Phương pháp sử dụng bã thải trồng nấm Bào ngư,
Linh chi để trồng nấm rơm Mùn cưa là nguyên
liệu chính để trồng nấm Bào Ngư và Linh Chi. Sau khi dùng xong, bã thải trồng nấm
Bào Ngư và Linh Chi được tái sử dụng trồng nấm rơm cho hiệu quả cao.
1. Phương pháp chất
thành mô (phổ biến) 1.1. Chuẩn bị
nguyên vật liệu: Mùn cưa: Được lấy
từ phôi nấm bào ngư hoặc phôi nấm linh chi đã qua thu hoạch (phôi thải), có chất
lượng tốt không bị nhiễm nấm mốc. Vôi bột; Meo giống;
Dinh dưỡng bổ sung như phân urê, phân DAP, vôi bột, cám gạo; Bạt đen để che mô
nấm. 1.2. Xử lý nguyên
liệu: Mùn cưa sau khi ủ
sẽ phân giải, chuyển hóa tạo thành các chất dễ tiêu cho nấm hấp thụ. Kích thích
sự phát triển của xạ khuẩn để quá trình phân hủy mùn cưa được diễn ra nhanh, tốt
hơn. Trong quá trình ủ, nguyên liệu sẽ được làm chín và một phần vi sinh vật có
hại trong mùn cưa bị tiêu diệt. Quy trình xử lí mùn cưa: Mùn cưa được đánh tơi ra, ủ với nước vôi nồng
độ 2% (2kg vôi trong 100L nước) trộn đều đến khi độ ẩm đạt 70-80%. Có thể kiểm
tra độ ẩm bằng cách nắm một nắm mùn cưa, vắt mạnh thấy nước nhỏ ra từng giọt là
được. Bổ
sung thêm dinh dưỡng đều vào đống ủ để cung cấp dinh dưỡng và kích thích sự
phát triển của xạ khuẩn. Liều lượng bổ sung: 1-3kg dinh dưỡng/100kg mùn cưa (5% cám bắp, 1% NPK, 1% tro bếp trên tổng khối lượng mùn cưa). Đánh đống ủ và quấn
bạt phủ lại để giữ nhiệt. Trong quá trình ủ, cần duy trì nhiệt độ trong đống ủ
đạt 60-70oC. Thường xuyên kiểm tra độ ẩm của đống ủ và tưới thêm nước
vôi khi thấy khô để giữ ẩm cho mùn cưa. Đến ngày thứ 3-4
tiến hành đảo đống ủ (đảo mùn trên xuống dưới, trong ra ngoài và ngược lại) để
nguyên liệu chín đều và tiếp tục ủ đến ngày thứ 6-7 thì bắt đầu ra mô. 1.3. Chọn địa điểm
và meo giống a. Địa điểm Chọn địa điểm trồng
nấm sao cho sạch sẽ, cao ráo, bằng phẳng không bị ngập úng. Tránh những nơi
chăn nuôi, khu vực có chứa rác thải, nước thải sinh hoạt. Dọn sạch cỏ, rác và rải
vôi để diệt khuẩn khu đất trước khi tiến hành trồng. b. Chọn meo giống Chọn meo đúng tuổi
và không tạp nhiễm tại các cơ sở cung cấp uy tín, có thương hiệu. Tiêu chuẩn bịch
meo tốt: Sợi tơ nấm màu trắng trong, mở nắp bịch meo có mùi tương tự như nấm
rơm. Tơ nấm phát triển đều khắp mặt trong bịch meo. Cách tính meo giống:
100kg nguyên liệu sử dụng 2–3kg meo nấm rơm. c. Chăm sóc và thu hoạch Ra mô kích thước rộng
30-40cm, cao 30cm. Meo nấm rơm được bóp nhuyễn và cấy meo theo từng lớp 10cm mô
(trên cùng là một lớp meo). Tiếp theo, sử dụng
màn phủ nông nghiệp đen hoặc bạt nilong tối màu đậy kín, ủ tơ 4-5 ngày (không
tưới nước) đến khi tơ giăng đầy mô nấm. Nhiệt độ mô nấm ủ tơ 33-35oC
là tốt nhất. Sau khi ủ tơ, mở
màn phủ ra và tưới xả tơ rồi tiến hành đậy áo rơm (rơm khô) lên bề mặt mô nấm để
giữ ẩm. Độ dày của rơm áo dày khoảng 4-5cm. Ngày tưới phun
sương 2-3 lần, duy trì độ ẩm 70-80%, nhiệt độ 30-32oC. Sau 8-9 ngày
từ lúc cấy giống sẽ có nấm con xuất hiện và thu hoạch rộ vào ngày thứ 12-13. 2. Phương pháp trồng
trong khay (tự trồng tại nhà) 2.1. Chuẩn bị: Khay, rổ to bằng
nhựa, có nhiều mắc để thoát nước, hình vuông hoặc tròn đều được. Thông thường
hay sử dụng các khay nhựa đựng trái cây có kích thước 50x70 cm, cao từ 30-40
cm. + Mùn cưa thải: Khoảng
10-15 bịch phôi thải (10-12kg mùn cưa)/1 khay nhựa. + Meo nấm rơm: 2-3
bịch. Vôi bột: 200g. Rơm khô, bạt Nilong để đậy. 2.2. Xử lý nguyên liệu Lót một lớp rơm
khô ở đáy khay để giữ ẩm và hạn chế mùn cưa bị rơi ra ngoài. Mùn cưa được đánh
tơi ra và ủ với nước vôi 2% đến khi độ ẩm đạt 70-80%. Có thể kiểm tra độ ẩm bằng
cách nắm một nắm mùn cưa, vắt mạnh thấy nước nhỏ ra từng giọt là được (bổ sung
thêm nước nếu thấy mùn cưa khô). Bổ sung thêm dinh
dưỡng vào nguyên liệu để cung cấp dinh dưỡng (tương tự như phương pháp chất mô) 2.3.
Chăm sóc và thu hoạch Sau khi đã xử lí
và phối trộn dinh dưỡng vào nguyên liệu thì tiến hành cho nguyên liệu vào khay.
Meo nấm rơm được bóp nhuyễn và cấy meo theo từng lớp (trên cùng là một lớp meo). Sử dụng màn phủ
nông nghiệp đen hoặc bạt nilong tối màu đậy kín, ủ tơ 4-5 ngày (không tưới nước)
đến khi tơ giăng đầy mô nấm. Nhiệt độ mô nấm ủ tơ: 33-35oC là tốt nhất.
Sau khi ủ tơ, mở
màn phủ ra và tưới xả tơ rồi tiến hành đậy áo rơm (rơm khô) lên bề mặt khay (mô
nấm) để giữ ẩm. Độ dày của rơm áo dày khoảng 4-5cm. Ngày tưới phun
sương 2-3 lần, duy trì độ ẩm 70-80%, nhiệt độ 30-32 oC. Sau 8-9 ngày
từ lúc cấy giống sẽ có nấm con xuất hiện và thu hoạch rộ vào ngày thứ 12-13.
Bùi Thị Huyền Trang Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp thành phố Cần Thơ |