I. Cuộc đời và sự nghiệp của Ph.Ăng-ghen
Phơ-ri-đơ-rích Ăng-ghen (Friedrich Engels) là nhà lý luận
chính trị, là
một triết gia và nhà khoa học người Đức thế kỷ 19, người
cùng với Các Mác (Karl Marx) đã sáng lập học thuyết Mác - học thuyết khoa học, cách mạng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới.
Phơ-ri-đơ-rích Ăng-ghen sinh ngày 28/11/1820 ở thành phố Ba-rơ-men tỉnh Ranh, Vương quốc Phổ (ngày nay là nước
Đức) trong
một gia đình là chủ xưởng dệt.
Năm 14 tuổi, Ph.Ăng-ghen
học tại thành phố Ba-rơ-men và đã sớm bộc lộ năng khiếu về ngoại
ngữ. Tháng 10/1834, Ph.Ăng-ghen
chuyển sang học ở trường trung học En-béc-phen-đơ,
một trường tốt nhất ở Phổ thời bấy giờ. Năm 1837, Ph.Ăng-ghen buộc phải rời bỏ trường trung học khi
chưa tốt nghiệp để bắt đầu công việc buôn
bán ở Văn phòng theo yêu cầu của
bố. Trong thời gian này Ông tự học
các ngành sử học, triết học, văn học, ngôn ngữ và thơ ca. Tháng 6/1838, Ph.Ăng-ghen đến làm
việc tại Văn phòng thương mại ở thành phố cảng Ba-rơ-men, thành phố cảng lớn
buôn bán với nhiều nơi trên thế giới. Tại đây Ph.Ăng-ghen được mở rộng tầm hiểu biết về nền văn học và
báo chí nước ngoài cũng như tác động của cuộc cách mạng dân chủ tư sản đã chín muồi
ở Đức hồi bấy giờ và chính điều đó đã thúc đẩy việc hình thành các quan điểm dân chủ - cách
mạng ở Ph.Ăng-ghen.
Cuối năm 1839, Ph.Ăng-ghen bắt tay vào nghiên cứu các tác phẩm của Hê-ghen, chính thức không trở thành thương gia như ý muốn của bố mà hiến thân cho một sự nghiệp khác cao cả
hơn.
Tháng 9/1841, Ph.Ăng-ghen đến Béc-lin và gia nhập binh đoàn pháo binh. Tại đây được
huấn luyện quân sự, đó là điều rất cần thiết, song Ph.Ăng-ghen vẫn lui tới trường Đại học Tổng hợp Béc-lin nghe
các bài giảng triết học, tham gia hội thảo về lịch sử tôn giáo.
Mùa xuân 1842, Ph.Ăng-ghen bắt đầu cộng tác với
tờ Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Trong những bài báo in năm
1842, Ph.Ăng-ghen đã lên tiếng phản kháng chế độ kiểm duyệt của Chính phủ Vương
quốc Phổ, trật tự phong kiến ở Đức. Ngày
8/10/1842, Ph.Ăng-ghen mãn hạn
phục vụ trong quân đội và từ
Béc-lin trở
về Ba-rơ-men.
Một tháng sau, Ph.Ăng-ghen sang Anh thực tập buôn bán. Trên đường sang Anh,
Ph.Ăng-ghen đã thăm trụ sở tờ báo Rheinische Zeitung ở Koln và đã gặp C.Mác, Tổng biên tập tờ báo.
Ph.Ăng-ghen
đã ở lại Anh trong 02 năm. Trong thời gian từ tháng 9/1844 - tháng
3/1845, Ph.Ăng-ghen đã viết cuốn sách “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh” và nhiều bài báo khác để
phân tích rõ
sự phân chia xã hội thành 03 giai cấp cơ bản (giai cấp quý tộc chiếm hữu ruộng đất, giai cấp tư
sản công nghiệp và giai
cấp vô sản) và đi đến kết luận “đằng sau cuộc đấu tranh của các
đảng phái ẩn giấu cuộc đấu tranh của các giai cấp”. Những
năm tháng ở Anh, Ph.Ăng-ghen chưa hoàn toàn đoạn tuyệt
với quan điểm của phái Hêghen trẻ, nhưng lại có ý nghĩa quyết định trong việc dứt khoát từ bỏ những quan điểm duy tâm
để trở thành nhà duy vật. Tháng 2/1844, tham gia viết bài cho tờ tạp chí Niên giám
Pháp - Đức, các bài báo của Ph.Ăng-ghen đề
cập đến việc áp dụng phương pháp biện chứng vào việc phân tích các quan hệ kinh
tế của xã hội tư sản. Tháng 2/1845, cuốn sách “Gia đình Thần thánh”
của C.Mác và Ph.Ăng-ghen ra đời, đã phê phán mạnh mẽ chủ
nghĩa duy tâm và phương pháp của nó, nêu luận điểm về vai trò quyết định của
quần chúng nhân dân trong lịch sử. Trong hai năm 1845 - 1846,
C.Mác và Ph.Ăng-ghen cùng hợp sức viết công
trình nổi tiếng “Hệ tư tưởng Đức”, phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm
của Hêghen và phái Hêghen trẻ; đồng thời, phê phán chủ nghĩa duy vật không nhất
quán của Lút-vích Phoi-ơ-bắc, nêu ra những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Năm 1848, Đại hội II Liên
đoàn những người cộng sản đã uỷ nhiệm C.Mác và Ph.Ăng-ghen cùng viết “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” - đó là Cương lĩnh cách mạng
đầu tiên của giai cấp vô sản thế giới, là ngọn đuốc soi đường
cho giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh phá bỏ xiềng
xích và mọi sự áp bức, bất công trong xã hội tư bản.
Năm 1848, trong thời gian sống ở Pa-ri, Ph.Ăng-ghen quan tâm nhiều đến
hoạt động của Ban Chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản và trở
thành Uỷ viên của Ban lãnh đạo và là một trong những lãnh đạo Câu lạc bộ công
nhân Đức (tháng 3/1848) do Ban Chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng
sản lập ra.
Tháng 3/1848, cùng với C.Mác, Ph.Ăng-ghen thảo ra “Những
yêu sách của Đảng Cộng sản Đức” được Ban Chấp hành Trung ương Liên đoàn
những người cộng sản thông qua như là văn kiện có tính chất cương lĩnh cho hành
động của giai cấp vô sản Đức.
Tháng 4/1848 Ph.Ăng-ghen cùng với C.Mác trở về Đức
tham gia cuộc cách mạng Đức; tháng 10/1848, đi Bỉ để tránh lệnh truy
nã của chính quyền Phổ nhưng do không được phép cư trú chính trị
nên Ph.Ăng-ghen
lại đến Pa-ri; sau đó sang Thụy Sĩ tham gia Đại hội các liên đoàn công nhân Đức
và được bầu
vào Uỷ ban Trung ương của tổ chức này.
Tháng Giêng năm 1849, Ph.Ăng-ghen trở về Đức tiếp tục
hoạt động cách mạng. Khi cuộc đấu tranh bùng nổ ở Tây và Nam nước Đức (tháng
5/1849), Ph.Ăng-ghen đã vạch ra một kế hoạch hoạt động quân sự, thành lập quân
đội cách mạng tiến hành cuộc khởi nghĩa. Ngày 10/5/1849, Ph.Ăng-ghen đến
Elberfeld và được bổ sung vào Ban Quân sự,
trực tiếp lãnh đạo việc xây dựng công sự, trông coi tất cả các chiến luỹ
trong thành phố, đồng thời kiêm
nhiệm phụ trách pháo binh. Sau cuộc khởi nghĩa ở Tây - Nam nước Đức, Ph.Ăng-ghen đưa
ra một kế hoạch đã suy nghĩ kỹ để triển khai cuộc đấu tranh cách mạng và dấy
lên thành phong trào toàn nước Đức. Trong thời kỳ này, Ph.Ăng-ghen tham gia trực tiếp 04
trận đánh lớn, trong đó có trận Rastatt, một trận
có ý nghĩa đặc biệt to lớn; sau này, đã viết “Luận văn quân sự” nổi tiếng
thể hiện khả năng thiên tài quân sự của Ông.
Tháng 11/1849, Ph.Ăng-ghen đến Luân Đôn (Anh)
và được bổ
sung vào Ban Chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản mà C.Mác đã
cải tổ sau khi đến đây. Ph.Ăng-ghen sống ở Luân Đôn một năm,
trong thời
gian này, Ông đã viết hai tác phẩm “Cách mạng và phản cách mạng ở Đức”
và “Cuộc chiến tranh nông dân ở Đức”.
Tháng 11/1850, Ph.Ăng-ghen buộc
phải chuyển đến Man-che-xtơ (Anh) và lại bắt đầu làm việc ở Văn phòng thương mại. Điều này
tạo điều kiện cho Ph.Ăng-ghen có thể giúp đỡ về vật chất cho C.Mác hoạt động cách mạng.
Ph.Ăng-ghen đặc biệt chú ý nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên, quân sự, chính
sách quốc tế. Cùng với C.Mác, Ph.Ăng-ghen tham gia lãnh đạo Quốc tế Cộng sản
I.
Tháng 9/1870, Ph.Ăng-ghen đến Luân Đôn và được đưa
vào Tổng Hội đồng của Quốc tế Cộng sản I. Ph.Ăng-ghen kiên trì đấu tranh
chống lại quan điểm cơ hội của phái Pruđông, Latxan, Bacunin.
Năm 1871, Ph.Ăng-ghen tham gia vào việc tổ
chức chiến dịch bảo vệ Công xã Pari. Trong thời gian này, Ph.Ăng-ghen đã viết một số tác
phẩm có giá trị lý luận, đặc biệt là cuốn “Chống Đuy rinh” (1878), góp phần to lớn cho
việc hoàn thiện lý luận cho chủ nghĩa Mác.
Sau khi C.Mác qua đời (1883), Ph.Ăng-ghen là người
lãnh đạo tổ chức những người theo chủ nghĩa xã hội ở châu Âu, chuẩn bị cho in
tập 2 và 3 của bộ Tư bản mà C.Mác chưa kịp hoàn thành. Ph.Ăng-ghen viết nhiều tác
phẩm nổi tiếng vào những năm cuối đời, như: Nguồn gốc gia đình, Chế
độ tư hữu và Nhà nước (1884), Lút-vích Phoi
ơ bắc và sự cáo chung của triết
học cổ điển Đức (1886), Biện chứng tự nhiên,Vấn đề
nông dân ở Pháp và Đức (1894); đồng
thời tiếp
tục làm cố vấn và là người lãnh đạo của những người xã hội chủ nghĩa châu Âu.
Ph.Ăng-ghen đã tiến hành cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa cơ
hội trong các đảng công nhân, vạch trần và phê phán kịch liệt những khuyết điểm
của các đảng đó, giúp các đảng đó có một phương hướng cách mạng trong công tác.
Tác phẩm “Phê phán dự thảo Cương lĩnh của Đảng xã hội dân chủ năm 1891”, viết
năm 1891, là một văn kiện quan trọng của Ph.Ăng-ghen đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội.
Ph.Ăng-ghen mất ngày 05 tháng 8 năm 1895 ở Luân Đôn, thi hài sau đó được hỏa
táng và thủy táng xuống biển.
II. CÔNG LAO, CỐNG HIẾN VĨ ĐẠI CỦA PH.ĂNG-GHEN ĐỐI VỚI CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN VÀ PHONG TRÀO CÔNG NHÂN QUỐC TẾ
1. Ph.Ăng-ghen đã cùng với C.Mác xây dựng, tạo lập
nền tảng tư tưởng và hoàn thiện lý luận cho học thuyết cách mạng
Từ sau cuộc gặp gỡ C.Mác năm 1844, Ph.Ănghen đã trở thành người bạn,
người đồng chí gần gũi thân thiết của C.Mác, xây đắp nên một tình bạn cảm động
và vĩ đại nhất của các lãnh tụ giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Toàn bộ học thuyết của C.Mác và Ph.Ăng-ghen là kết quả của quá trình nghiên cứu khoa học rất nghiêm túc và đồ sộ, giải
đáp được nhiều vấn đề mà nhân loại đặt ra. Kế thừa những trào lưu tư tưởng tốt
đẹp nhất của loài người đến thế kỷ XIX (triết học Đức, kinh tế chính trị Anh và
chủ nghĩa xã hội Pháp) và tổng kết thực tiễn trong thời đại mình, Ph.Ăng-ghen cùng C.Mác đã
sáng tạo ra một học thuyết hoàn chỉnh, chặt chẽ và chính xác, trong đó tính
khoa học thống nhất với tính cách mạng triệt để. Công lao vĩ đại của C.Mác và
Ph.Ăng-ghen, đó là:
- Đã bảo vệ và phát triển triết học
duy vật, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch
sử, mở ra một bước ngoặt căn bản trong triết học, cung cấp cho loài người một
cách nhìn mới mẻ, một vũ khí sắc bén để nhận thức và cải tạo thế giới. Chủ
nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác là thành quả vĩ đại của tư tưởng khoa học, đã
phát hiện ra tính quy luật của sự phát triển xã hội và tính tất yếu của sự
chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội
khác cao hơn.
- Đã dựa vào kinh tế chính trị học cổ
điển, tạo ra một học thuyết kinh tế mới, đem lại một cuộc cách mạng thực sự
trong kinh tế chính trị học. Với việc tìm ra quy luật giá trị thặng dư, C.Mác
đã tìm ra những phương thức bóc lột tư bản chủ nghĩa, luận chứng một cách có
căn cứ khoa học về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi
tất yếu của chủ nghĩa cộng sản.
- Qua việc phân tích, mổ xẻ chủ nghĩa
tư bản, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã phát hiện ra những quy luật vận động và phát triển của nó, trên
cơ sở đó dựa vào sự phát triển của xã hội tương lai, chỉ ra lực lượng xã hội có
khả năng trở thành người sáng tạo xã hội mới là giai cấp công nhân do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Giai cấp công nhân phải tiến hành một cuộc đấu tranh cách mạng
gian khổ để lật đổ chủ nghĩa tư bản. Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển
của xã hội có giai cấp. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội mác-xít là chủ nghĩa xã hội
khoa học, khác hẳn chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Pháp trước đó.
2. Cống hiến của
Ph.Ăng-ghen trong học thuyết giá trị thặng dư – phát hiện vĩ đại thứ hai của
học thuyết Mác
Những cống hiến khoa
học của Ph.Ăng-ghen qua các công trình đầu tay: Lược khảo phê phán khoa kinh
tế chính trị; Tình cảnh giai cấp công nhân Anh, cùng những bài viết về kinh tế, chính trị, xã hội của nước Anh lúc
bấy giờ đã bác bỏ những quan điểm lý luận tôn sùng chế độ tư hữu nói chung, chế
độ sở hữu tư sản nói riêng, vạch trần bí mật của chế độ bóc lột, áp bức, chế độ
cạnh tranh vô chính phủ, nạn khủng hoảng và thất nghiệp, nạn bần cùng đói khổ,
địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản. Trên cơ sở
dự báo có tính khoa học và cách mạng mang bản chất nhân văn sâu sắc, Ph.Ăng-ghen truy tìm
nguyên nhân sâu xa của những tệ nạn xã hội, những nỗi thống khổ của giai cấp
công nhân: đó là chế độ sở hữu tư nhân tư sản. Trong chế độ sở hữu
này, lực lượng sản xuất công nghiệp đã phát triển và tạo ra nhiều của cải nhưng
“nạn
giàu - nghèo, đau khổ do chính từ sự thừa thãi đẻ ra” lại ngày càng tăng lên.
Với những phát hiện và
những tư tưởng, quan điểm thể hiện trong các công trình nghiên cứu ngay từ thời
gian đầu của Ph.Ăng-ghen, như C.Mác nhận xét, đã gợi mở và tạo cảm hứng cho C.Mác một hướng
nghiên cứu mới, đúng đắn về xã hội tư bản, hướng nghiên cứu chuyển từ triết học
và luật học sang nghiên cứu kinh tế chính trị học. Từ đó C.Mác đã phát hiện ra
quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản - quy luật giá trị thặng dư. Cùng với C.Mác, Ph.Ăng-ghen đã vạch
rõ quá trình phát sinh, phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
nêu lên những mặt tiến bộ
và vạch rõ những khuyết tật, mâu thuẫn của chủ nghĩa
tư bản; từ đó đã chỉ ra rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ
bị thay thế bởi phương thức sản xuất mới, cao hơn, tiến bộ hơn, đó là phương
thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
3. Cống hiến đặc sắc
của Ph.Ăng-ghen trong việc phát hiện sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp
công nhân - phát hiện vĩ đại thứ ba của học thuyết Mác
Từ bỏ vị trí xuất
thân của mình, Ph.Ăng-ghen đã lăn lộn, gắn bó với phong trào công nhân, với tấm lòng
trung thành vô hạn và lập trường kiên định, với trí tuệ thiên tài và
sự mẫn cảm về chính trị, Ph.Ăng-ghen đã quan sát, cảm nhận trực tiếp nhu cầu bức
thiết của một giai cấp bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất trong xã hội tư bản và
phát hiện ra lực lượng xã hội có vai trò chủ đạo trong cuộc đấu tranh nhằm xóa
bỏ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản - đó là
giai cấp công nhân.
Cùng với C.Mác, Ph.Ăng-ghen không chỉ phát hiện ra
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, theo V.I.Lênin đó là “điểm trọng yếu
trong học thuyết Mác”. mà còn góp phần vạch ra vai trò của đội tiền
phong (chính đảng) của giai cấp công nhân. Cùng với C.Mác, Ph.Ăng-ghen luôn luôn gắn lý
luận và thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân vừa với tư cách nhà bác học,
vừa với tư cách người thầy của giai cấp công nhân thế giới. Ph.Ăng-ghen đã cống hiến toàn bộ nghị lực phi thường, trí tuệ uyên bác
và trái tim nồng nhiệt của mình cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân,
sự nghiệp xây dựng và củng cố các đảng của giai cấp vô sản. Với tinh thần cách
mạng triệt để của chủ nghĩa Mác, Ph.Ăng-ghen nêu lên một luận điểm nổi tiếng:
“Chủ nghĩa xã hội từ khi trở thành khoa học, đòi hỏi phải được đối xử như là
một khoa học”. Đứng trên lập trường ấy, Ph.Ăng-ghen đã cùng C.Mác đấu tranh
không mệt mỏi khuynh hướng phản khoa học và không tưởng trong phong trào công
nhân, từ chủ nghĩa cộng sản không tưởng của Vai-tơ-rinh, chủ nghĩa xã hội tiểu
tư sản của Pru-đông, đến chủ nghĩa vô Chính phủ của Ba-cu-nin, từ chủ nghĩa của
người trong Đảng xã hội dân chủ Đức; chống lại các trào lưu phi vô sản như chủ
nghĩa Sô-vanh, chủ nghĩa cơ hội “hữu” khuynh và “tả” khuynh; chống lại những khuynh
hướng cải lương và biệt phái, những âm mưu chia rẽ phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế.
Cống hiến của Ph.Ăng-ghen đối với
phong trào công nhân quốc tế được thể hiện sinh động thông qua 10 năm tồn tại của
Quốc tế I và hoạt động trong phong trào công nhân quốc tế cho đến tận cuối đời.
Sau khi Quốc tế I ngừng hoạt động, rồi Quốc tế II ra đời, vấn đề thống nhất
phong trào công nhân quốc tế, đặc biệt là sự thống nhất tư tưởng của phong trào
được Ph.Ăng-ghen hết sức quan tâm. Ông đấu tranh mạnh mẽ, kiên quyết chống những
khuynh hướng tư tưởng ảnh hưởng xấu đến phong trào công nhân, nhất là đấu tranh
chống chủ nghĩa cải lương và chủ nghĩa vô chính phủ, khẳng định vị trí, vai trò
quan trọng của chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân.
Khi đánh giá công lao
to lớn của Ph.Ăng-ghen đối với phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản thế
giới, V.I.Lê-nin viết: “Sau bạn ông là C.Mác, Ph.Ăng-ghen là nhà
bác học và người thầy lỗi lạc nhất của giai cấp vô sản hiện đại trong toàn thế
giới văn minh. Từ ngày mà vận mệnh đã gắn liền C.Mác và Ph. Ăng-ghen thì
sự nghiệp suốt đời của hai người bạn ấy trở thành sự nghiệp chung của họ. Cho
nên muốn hiểu Ph.Ăng-ghen đã làm gì cho giai cấp vô sản thì phải nhận rõ ý nghĩa của học
thuyết và hoạt động của C.Mác đối với sự phát triển của phong trào công nhân hiện đại”.
4. Ph.Ăng-ghen bảo vệ,
phát triển chủ nghĩa Mác, góp phần làm cho chủ nghĩa Mác luôn có giá trị khoa học và cách
mạng
Cũng như C.Mác,
Ph.Ăng-ghen không bao giờ coi lý luận của mình là học thuyết hoàn hảo, đã xong
xuôi và buộc mọi người phải dập khuôn, sao chép, mà luôn đòi hỏi phải phát
triển lý luận thông qua nghiên cứu thực tiễn, tổng kết thực tiễn. Ông kiên quyết
bác bỏ những mưu toan giáo điều của học thuyết Mác, biến học thuyết đó thành một mớ
những công thức bất biến;
đồng thời đấu tranh với bất cứ người nào coi thường sự tiến
bộ của khoa học, coi thường những điều kiện và những nhu cầu xã hội mới nảy
sinh. Khi tình hình thay đổi và cuộc sống thực tiễn đặt ra những vấn
đề mới, Ph.Ăng-ghen dũng cảm xem xét lại ngay cả những quan điểm của mình. Ph.Ăng-ghen thẳng
thắn thừa nhận sai lầm của mình và C.Mác trong thời kỳ bão táp cách mạng (1848 - 1852) khi nhận định
về tình hình thế giới, về chủ nghĩa tư bản, về phương pháp, sách lược cách mạng
của phong trào công nhân... Ngay cả một số nhận định trong “Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản” sau này đã được Ph.Ăng-ghen cùng với
Mác thừa nhận: nếu được viết lại thì cũng cần bổ sung và yêu cầu những người cộng sản
“bất
cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó phải tuỳ theo hoàn
cảnh lịch sử đương thời, và do đấy không nên quá câu lệ vào những biện pháp cách
mạng nêu ra ở cuối chương II”.
Là một nhà tư tưởng
quân sự thiên tài, Ph.Ăng-ghen còn là người có công đặt nền móng xây dựng và phát triển học
thuyết mácxít về quân đội, về chiến tranh, bảo vệ thành quả cách mạng. Những
đóng góp của Ph.Ăng-ghen trong lĩnh vực khoa học, nghệ thuật quân sự đã góp phần làm phong
phú, sâu sắc hơn di sản lý luận của chủ nghĩa Mác trong kho tàng tri thức, văn
hóa nhân loại, một mẫu mực về sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nhận thức, giải thích một lĩnh vực đặc
biệt phức tạp là chiến tranh và hòa bình, quân sự và quốc phòng, khởi nghĩa vũ
trang và đấu tranh cách mạng, xây dựng quân đội cách mạng và bảo vệ Tổ quốc.
III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CỦA PH.ĂNG-GHEN VÀO SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin, trong đó có những tư tưởng thiên tài của Ph.Ăng-ghen, Đảng ta
do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội
và hiện nay đang lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Tư duy biện chứng của
Ph.Ăng-ghen về phương thức phát triển “rút ngắn” cho thấy rõ, nước ta có điều
kiện bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Về khách quan, trước hết đó chính là yếu tố
thời đại. Con đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta diễn ra trong thời đại mà nội dung chủ yếu của
nó vẫn là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị thế
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Thực
tế khách quan này vừa đặt ra thách thức không nhỏ, vừa tạo thời cơ thuận lợi cho sự phát triển đất nước.
Những tư tưởng của
Ph.Ăng-ghen về triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học... đến
nay vẫn giữ nguyên tính thời sự và có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi
mới đất nước ta, nhất là trong việc nhận thức và làm sáng tỏ quy luật vận động tất
yếu của cách mạng Việt Nam, giúp chúng ta nhận thức đầy đủ hơn về mối quan hệ
giữa mục tiêu và phương tiện phát triển nền kinh tế. Đảng đã khẳng định: “sản
xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển
của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng".
Qua 35 năm đổi mới đất nước cho thấy, đổi mới là
yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Tuy
nhiên, đổi mới không phải là phủ định sạch trơn thành tựu và cách làm trước
đây, mà là khẳng định những gì trước kia hiểu đúng làm đúng, loại bỏ những gì
hiểu sai làm sai, hoặc những gì trước kia đúng nhưng nay không còn phù hợp, bổ
sung nhận thức mới và cách làm mới, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của cách mạng.
Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa
xã hội được nhận thức đúng đắn hơn, xây dựng hiệu quả hơn. Quá trình này không
phải là xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là nhận thức
đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết, tư tưởng đó, nắm vững bản
chất khoa học và cách mạng của nó, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động cách mạng, dùng lý luận đó làm cơ sở quan trọng để đánh giá tình
hình, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, lấy đó làm
cơ sở xuất phát để hoạch định đường lối đổi mới. Trong
công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta đã nhận thức sáng tỏ hơn sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân, tăng cường vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với
Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, hướng đến xã hội: “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thấm
nhuần tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, của Ph.Ăng-ghen về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan
hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Đảng ta đã tổng kết thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng rõ hơn, trên cơ sở đó Đảng đề ra và từng bước bổ sung, phát triển đường lối đổi mới
toàn diện đất nước. Kinh nghiệm và những bài học được tích lũy để Đảng ta từng
bước hoàn thiện lý luận đổi mới, phát
triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nhờ đó, nội lực của đất nước và dân tộc đã được huy
động vào các mục tiêu phát triển, cùng với các nguồn ngoại lực ngày càng được
tận dụng, khai thác có hiệu quả, bảo đảm cho sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ
nghĩa xã hội của Nhân dân Việt
Nam đi tới thắng lợi. Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta khẳng định: “Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới khẳng
định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát
triển của lịch sử. Thành tựu và những kinh nghiệm, bài học đúc kết từ thực tiễn
tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển
mạnh mẽ trong những năm tới”.
Có
thể nói, phương pháp luận, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin nói
chung, tư duy biện chứng của Ph.Ăng-ghen nói riêng là một hệ thống tri thức quý
báu, đòi hỏi cần tiếp tục được nghiên cứu nghiêm túc để có thêm cơ sở khoa học
cho bổ sung, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học; để tiếp tục đẩy mạnh tổng
kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, làm sáng tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, góp phần tích cực vào công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG