Thông tin Lý luận và thực tiễn
Nội dung cơ bản về hợp đồng làm việc của viên chức

Qua hơn 10 năm thực hiện Pháp lệnh Cán bộ, công chức, đội ngũ cán bộ, công chức đã được nâng cao và phát triển về số lượng, chất lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao của nhân dân. Các quy định “quyền lực công” và người thực hiện “quyền lực công” với “phục vụ công” và người thực hiện các dịch vụ công trong Pháp lệnh chưa được phân biệt rõ ràng. Chính vì thế cũng chưa phân biệt rõ cán bộ, công chức cũng như viên chức. Do vậy, năm 2008 Quốc hội đã thông qua Luật Cán bộ, công chức. Luật này chỉ điều chỉnh cán bộ, công chức làm việc trong cơ quan của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội mà không điều chỉnh viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập.

Năm 2010 tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII đã thông qua Luật Viên chức, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2012. Sự ra đời của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức là bước tiến vượt bậc đã thể hiện được cơ bản chủ trương của Đảng về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, đáp ứng các yêu cầu của thời kỳ phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời phù hợp với chủ trương bảo đảm tính tự chủ cho đơn vị sự nghiệp công lập.

 

Viên chức là một khái niệm được sử dụng khá phổ biến trong thực tiễn nước ta từ rất lâu nhưng pháp luật quy định không rõ ràng, cho đến khi Luật Viên chức được thông qua thì đã xác định viên chức tại Điều 2 “Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”. Qua nội dung này thì vị trí việc làm là công việc hoặc nhiệm vụ gắn với chức danh nghề nghiệp hoặc chức vụ quản lý tương ứng, là căn cứ xác định số lượng người làm việc, cơ cấu viên chức để thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập. Viên chức hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật (trừ các chức vụ đã được Luật Cán bộ, công chức và Nghị định số 06/2010/NĐ-CP quy định là công chức), theo chế độ hợp đồng, gắn với vị trí việc làm và chuyên môn nghiệp vụ, hưởng lương từ Ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự nghiệp khác theo quy định của pháp luật. Đồng thời chế độ làm việc sau khi được tuyển dụng đối với viên chức là chế độ làm việc theo hợp đồng gọi là “hợp đồng làm việc”.  Trong nội dung bài viết chỉ trao đổi một số nội dung về hợp đồng làm việc của viên chức theo quy định của Luật Viên chức.

- Hợp đồng làm việc là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa viên chức hoặc người được tuyển dụng làm viên chức với người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập về vị trí việc làm, tiền lương, chế độ đãi ngộ, điều kiện làm việc quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Tại Điều 25 quy định về các loại hợp đồng làm việc: hợp đồng làm việc xác định thời hạn và hợp đồng làm việc không xác định thời hạn:

+ Hợp đồng làm việc xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 36 tháng. Hợp đồng làm việc xác định thời hạn áp dụng đối với người trúng tuyển vào viên chức, trừ trường hợp điểm d khoản 1 Điều 58 của Luật Viên chức: “Cán bộ, công chức được chuyển sang làm viên chức tại đơn vị sự nghiệp công lập khi đáp ứng các điều kiện theo quy định của Luật này” và điểm đ khoản 1 Điều 58 của Luật Viên chức “Công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập khi hết thời hạn bổ nhiệm mà không được bổ nhiệm lại nhưng vẫn tiếp tục làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập đó thì được chuyển làm viên chức và bố trí công tác phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ”.

+ Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng. Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn áp dụng đối với trường hợp đã thực hiện xong hợp đồng làm việc xác định thời hạn và trường hợp cán bộ, công chức chuyển thành viên chức theo quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều 58 của Luật Viên chức.

- Về nội dung và hình thức của hợp đồng làm việc được quy định tại Điều 26: Hợp đồng làm việc được ký kết bằng văn bản giữa người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập với người được tuyển dụng làm viên chức và được lập thành ba bản, trong đó một bản giao cho viên chức. Đối với các chức danh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật do cấp trên của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập bổ nhiệm thì trước khi ký kết hợp đồng làm việc phải được sự đồng ý của cấp đó.

- Quy định về chế độ tập sự tại Điều 27: những người trúng tuyển viên chức mà chưa có kinh nghiệm làm việc liên quan đến nghiệp vụ chuyên môn từ 1 năm trở lên thì mới phải thực hiện chế độ thử việc; thời gian thử việc và phải được quy định trong nội dung của hợp đồng làm việc. 

-  Viên chức được đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc (Điều 29) trong các trường hợp: không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm các điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng làm việc; không được trả lương đầy đủ hoặc không được trả lương đúng thời hạn theo hợp đồng làm việc; không đủ sức khỏe hoặc không đủ điều kiện để tiếp tục thực hiện hợp đồng làm việc; được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội hoặc được cấp có thẩm quyền điều động, bổ nhiệm giữ chức vụ được quy định là công chức theo quy định của pháp luật; viên chức nữ có thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ quan y tế có thẩm quyền. 

- Đối với trường hợp có tranh chấp về hợp đồng làm việc, Luật Viên chức quy định các tranh chấp này sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật về lao động (Điều 30). Quan điểm có tính nguyên tắc, xuyên suốt các quy định về giải quyết tranh chấp hợp đồng làm việc là phải đảm bảo hài hòa lợi ích của viên chức và đơn vị sự nghiệp. 

Việc ban hành Luật Viên chức đáp ứng yêu cầu khách quan và thực trạng công tác quản lý viên chức và đội ngũ viên chức, nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân của các đơn vị sự nghiệp công lập; đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp và xây dựng đội ngũ viên chức có đạo đức nghề nghiệp, có trình độ và năng lực phục vụ nhân dân, góp phần thực hiện cải cách khu vực dịch vụ công phù hợp và đồng bộ với xu hướng chuyển đổi sang nền hành chính phục vụ, với cơ chế thị trường, tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế và việc tìm hiểu hợp đồng làm việc của người trúng tuyển vào viên chức là rất cần thiết./.


DƯƠNG HIỀN TRÚC LAN - GV. Khoa Nhà nước – pháp luật


THÔNG TIN NGHIÊN CỨU GIẢNG DẠY TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TP. CẦN THƠ SỐ 14 NĂM 2011


Các tin khác:
Thông tin lý luận và thực tiễn Trường Chính trị thành phố Cần Thơ số 21 năm 2025   (05/05/2025)
Thông tin lý luận và thực tiễn Trường Chính trị thành phố Cần Thơ số 20 năm 2024   (30/10/2024)
Thông tin lý luận và thực tiễn Trường Chính trị thành phố Cần Thơ số 19 năm 2024   (29/10/2024)
Thông tin lý luận và thực tiễn Trường Chính trị thành phố Cần Thơ số 18 năm 2024   (28/10/2024)
Thông tin lý luận và thực tiễn Trường Chính trị thành phố Cần Thơ số 17 năm 2024   (05/08/2024)
<<  <  1  2  3  4  5  ...    >>