Năm 2010 tại kỳ họp thứ 8, Quốc
hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII đã thông qua Luật Viên
chức, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2012. Sự ra đời của Luật Cán bộ, công
chức và Luật Viên chức là bước tiến vượt bậc đã thể hiện được cơ bản chủ trương
của Đảng về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
của bộ máy nhà nước, đáp ứng các yêu cầu của thời kỳ phát triển và hội nhập
kinh tế quốc tế đồng thời phù hợp với chủ trương bảo đảm tính tự chủ cho đơn vị
sự nghiệp công lập.

Viên chức là một khái niệm được
sử dụng khá phổ biến trong thực tiễn nước ta từ rất lâu nhưng pháp luật quy
định không rõ ràng, cho đến khi Luật Viên chức được thông qua thì đã xác định
viên chức tại Điều 2 “Viên chức là công dân Việt Nam được
tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo
chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công
lập theo quy định của pháp luật”. Qua nội dung này thì vị trí việc làm là công
việc hoặc nhiệm vụ gắn với chức danh nghề nghiệp hoặc chức vụ quản lý tương
ứng, là căn cứ xác định số lượng người làm việc, cơ cấu viên chức để thực hiện
việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập.
Viên chức hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định
của pháp luật (trừ các chức vụ đã được Luật Cán bộ, công chức và Nghị định
số 06/2010/NĐ-CP quy định là công chức), theo chế độ hợp đồng, gắn với vị
trí việc làm và chuyên môn nghiệp vụ, hưởng lương từ Ngân sách nhà nước và các
nguồn thu sự nghiệp khác theo quy định của pháp luật. Đồng thời chế độ làm việc
sau khi được tuyển dụng đối với viên chức là chế độ làm việc theo hợp đồng gọi
là “hợp đồng làm việc”. Trong nội dung
bài viết chỉ trao đổi một số nội dung về hợp đồng làm việc của viên chức theo
quy định của Luật Viên chức.
- Hợp đồng làm việc là sự thỏa
thuận bằng văn bản giữa viên chức hoặc người được tuyển dụng làm viên chức với
người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập về vị trí việc làm, tiền lương, chế độ
đãi ngộ, điều kiện làm việc quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Tại Điều 25 quy định
về các loại hợp đồng làm việc: hợp đồng làm việc xác định thời hạn và hợp đồng
làm việc không xác định thời hạn:
+ Hợp đồng làm việc xác định thời
hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu
lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 36 tháng. Hợp đồng
làm việc xác định thời hạn áp dụng đối với người trúng tuyển vào viên chức, trừ
trường hợp điểm d khoản 1 Điều 58 của Luật Viên chức: “Cán bộ, công chức được
chuyển sang làm viên chức tại đơn vị sự nghiệp công lập khi đáp ứng các điều
kiện theo quy định của Luật này” và điểm đ khoản 1 Điều 58 của Luật Viên chức
“Công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập khi hết
thời hạn bổ nhiệm mà không được bổ nhiệm lại nhưng vẫn tiếp tục làm việc tại
đơn vị sự nghiệp công lập đó thì được chuyển làm viên chức và bố trí công tác
phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ”.
+ Hợp đồng làm việc không xác
định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời
điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng. Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn
áp dụng đối với trường hợp đã thực hiện xong hợp đồng làm việc xác định thời
hạn và trường hợp cán bộ, công chức chuyển thành viên chức theo quy định tại
điểm d và điểm đ khoản 1 Điều 58 của Luật Viên chức.
- Về nội dung và hình thức của
hợp đồng làm việc được quy định tại Điều 26: Hợp đồng làm việc được ký kết bằng
văn bản giữa người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập với người được tuyển dụng
làm viên chức và được lập thành ba bản, trong đó một bản giao cho viên chức.
Đối với các chức danh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật do cấp trên của
người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập bổ nhiệm thì trước khi ký kết hợp đồng
làm việc phải được sự đồng ý của cấp đó.
- Quy định về chế độ tập sự tại Điều
27: những người trúng tuyển viên chức mà chưa có kinh nghiệm làm việc
liên quan đến nghiệp vụ chuyên môn từ 1 năm trở lên thì mới phải thực
hiện chế độ thử việc; thời gian thử việc và phải được quy định
trong nội dung của hợp đồng làm việc.
-
Viên chức được đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc (Điều 29) trong các
trường hợp: không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không
được bảo đảm các điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng làm việc;
không được trả lương đầy đủ hoặc không được trả lương đúng thời hạn theo hợp
đồng làm việc; không đủ sức khỏe hoặc không đủ điều kiện để tiếp tục thực hiện
hợp đồng làm việc; được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở các cơ quan của Đảng,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội hoặc được cấp có thẩm quyền điều động, bổ
nhiệm giữ chức vụ được quy định là công chức theo quy định của pháp luật; viên
chức nữ có thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ quan y tế có thẩm
quyền.
- Đối với trường hợp có tranh
chấp về hợp đồng làm việc, Luật Viên chức quy định các tranh chấp này sẽ
được giải quyết theo quy định của pháp luật về lao động (Điều 30). Quan
điểm có tính nguyên tắc, xuyên suốt các quy định về giải quyết tranh chấp hợp
đồng làm việc là phải đảm bảo hài hòa lợi ích của viên chức và đơn vị sự
nghiệp.
Việc ban hành Luật Viên chức đáp
ứng yêu cầu khách quan và thực trạng công tác quản lý viên chức và đội ngũ
viên chức, nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân; nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân của các đơn vị sự nghiệp
công lập; đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp và xây dựng đội ngũ viên
chức có đạo đức nghề nghiệp, có trình độ và năng lực phục vụ nhân dân, góp
phần thực hiện cải cách khu vực dịch vụ công phù hợp và đồng bộ với xu hướng
chuyển đổi sang nền hành chính phục vụ, với cơ chế thị trường, tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế và việc tìm hiểu hợp đồng
làm việc của người trúng tuyển vào viên chức là rất cần thiết./.
DƯƠNG HIỀN TRÚC LAN - GV. Khoa Nhà nước – pháp luật
THÔNG TIN NGHIÊN CỨU GIẢNG DẠY TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
TP. CẦN THƠ SỐ 14 NĂM 2011