Vận dụng quan điểm thực hành tiết kiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Trường Chính trị thành phố Cần Thơ
Tóm tắt: Tiết kiệm là phẩm chất đạo đức cơ bản
của con người. Có rất nhiều quan điểm về tiết kiệm, nhưng
ở Hồ Chí Minh, quan điểmvề tiết kiệm có nội dung sâu sắc, mới mẻ và rất nhân
văn. Quan điểm về tiết kiệm là một phần quan trọng trong tư tưởng đạo đức của
Người. Đặc biệt, Hồ Chí Minh không chỉ nói về tiết kiệm, mà còn là tấm gương ngời
sáng về thực hành tiết kiệm. Những câu chuyện về sự tiết kiệm của Hồ Chí Minh
trong chuyện ăn, ở, mặc, đi lại, làm việc đã trở thành huyền thoại của đạo đức
cách mạng. Người sống một đời sống vật chất giản dị, đạm bạc và
chỉ sử dụng cho mình những vật dụng tối cần thiết. Nội dung bài viết này tập
trung vào phân tích nội dung và giải pháp thực hành tiết kiệm theo quan điểmHồ
Chí Minh và sự vận dụng tại trường chính trị thành phố Cần Thơ. 1.
Đặt vấn đề Quan điểm Hồ Chí Minh về tiết kiệm có giá trị
khoa học và nhân văn rất lớn. Giá trị đó thể hiện rõ nét ở sự giải thích mới
của Người về vai trò, nội dung của tiết kiệm, về đối tượng và giải pháp thực
hành tiết kiệm. Trong bối cảnh hiện nay, sự lãng phí tràn lan ở nhiều người,
nhiều nơi tư tưởng Hồ Chí Minh về tiết kiệm càng trở nên giá trị và mang tính
thời sự hơn bao giờ hết.Hồ Chí Minh nói đến tiết kiệm như một
phẩm chất đạo đức của con người nói chung và của người cách mạng nói riêng. Chữ
“kiệm” của Hồ Chí Minh vừa cụ thể, vừa khái quát, vừa truyền thống, vừa hiện
đại; bởi lẽ, Người đứng trên thực tiễn của cách mạng Việt Nam để luận giải về
một phẩm chất đạo đức chung của nhân loại và bổ sung những nội hàm mới về tiết
kiệm và thực hành tiết kiệm. Tư tưởng và sự thực hành tiết kiệm của Hồ Chí Minh
đã thể hiện năng lực tư duy khoa học, sáng tạo và lối sống thanh cao của một
danh nhân văn hóa kiệt xuất. Mỗi người chúng ta cần học tập và thực hành tiết
kiệm để góp phần xây dựng Đất nước giàu mạnh. 2.
Nội dung 2.1.Những nội
dungcơ bản về thực hành tiết kiệm trong tư tưởng Hồ Chí Minh Theo
Hồ Chí Minh, tiết kiệm là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tiền của, thời gian,
công sức lao động, tích trữ thêm vốn cho công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước, nhằm nâng cao mức sống của nhân dân. Người cho rằng: “Tiết kiệm không
phải là ép bộ đội, cán bộ và nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc. Trái lại, tiết kiệm
cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản xuất là để dần dần nâng cao
mức sống của bộ đội, cán bộ và nhân dân…”. Trong quan niệm của Người, tiết kiệm
là chi tiêu, sử dụng có kế hoạch, có tính toán, xem xét đầy đủ nhằm giảm bớt
hao phí trong sử dụng tiền của, thời gian, công sức nhưng vẫn đạt được mục tiêu
xác định. Hồ
Chí Minh đã chỉ ra 3 nội dung cơ bản của việc tiết kiệm, đó là: Tiết kiệm tiền của,tiết
kiệm sức lao động, tiết kiệm giờ giấc làm việc, cụ thể: Một là tiết kiệm tiền của. Việt Nam là một
nước nghèo, ngân khố quốc gia hạn hẹp nên Nhà nước phải có chính sách tài khóa
phù hợp để dồn tiền chosản xuất, đặc biệt cho những ngành quan trọng đối với
quốc kế, dân sinh. Nước nghèo thì đại bộ phận dân chúng cũng nghèo nên mỗi
người và mỗi gia đình vừa phải cần cù vừa phải tiết kiệm. Như vậy, tiết kiệm
của cải suy cho cùng là chi tiêu hợp lý, chi tiêu phải thấp hơn so với khả năng
cho phép để tạo ra sự tích lũy vật chất cho cá nhân cũng như xã hội.Khi bàn về
tiết kiệm của cải, tiền bạc, Hồ Chí Minh nói rõ: “Tiết kiệm không phải là bủn
xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc
đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn
bao nhiêu của, cũng vui lòng” [5, tr.123]. Hai là tiết kiệm sức lao động. Hồ Chí Minh
cho rằng“Phải biết quý trọng sức người là vốn quý nhất của ta. Chúng ta cần hết
lòng chăm sóc sức khỏe và sử dụng thật hợp lý sức lao động của nhân dân ta” [7,
tr.70]. Người cho rằng lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn ai
hết, không ai chiến thắng được lực lượng đó"Trong bầu trời không
gì quý bằng Nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của
Nhân dân".Do đó, trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ
cho lợi ích của Nhân dân.Tiết kiệm sức dân có nghĩa là phân công lao động hợp lý,
tổ chức dây chuyền sản xuất khoa học. Tiết kiệm sức dân còn là tiết kiệm xương
máu của bộ đội, chiến sỹ và nhân dân. Ba là tiết kiệm giờ giấc làm việc. Theo Hồ
Chí Minh, thời gian cũng chính là tiền bạc, thậm chí thời gian còn quý hơn tiền
bạc. Thời gian và sự làm việc tích cực sẽ đẻ ra tiền bạc, nhưng tiền bạc vẫn
không thể mua được thời gian, không thể kéo thời gian quay trở lại. Mỗi người
cần phải biết quý trọng thời gian của mình cũng như thời gian của người khác.
Để tiết kiệm thời gian phải giữ vững kỷ luật lao động trong 8 giờ vàng ngọc,
phải sắp xếp công việc một cách khoa học, phải hạn chế việc họp hành kéo dài mà
không hiệu quả... Ngoài ba nội dung trên, trong thực tế cuộc sống của
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện tiết kiệm thông qua việc“nói đi đôi với làm”. Với Hồ Chí Minh “nói thì phải làm”, “nói ít,
làm nhiều, chủ yếu là hành động”. Đó là biểu hiện của tư tưởng tiết kiệm lời.
Yêu cầu tiết kiệm lời được Hồ Chí Minh đặt ra với từng cá nhân cũng như toàn bộ
tổ chức Đảng. Với các cơ quan đoàn thể, Người khuyên không nên họp nhiều, phải
hết sức tránh “tình trạng là hội mà không nghị, nghị mà không quyết, quyết rồi
mà không làm” [3, tr.139].Với mỗi cá nhân, Hồ Chí Minh yêu cầu: “nói ít, bắt
đầu bằng hành động”. 2.2. Vận dụng quan
điểm thực hành tiết kiệm của Chủ tịchHồ Chí Minhtại trường chính trị thành phố
Cần Thơ Hiện nay, sự nghiệp đổi mới đất nước đã
và đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với sự hình thành và phát triển
những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam. Hơn lúc nào hết, ngay từ
bây giờ toàn Đảng, toàn dân ta phải quan tâm đầy đủ đến vấn đề thực hành tiết
kiệm một cách đúng đắn hơn, khoa học hơn. Đối với trường chính trị thành phố Cần
Thơ, để vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, thiết nghĩ cần
thực hiện một số giải pháp sau: Một là, làm tốt công tác tổ chức học tập, quán triệt,
tuyên truyền, phổ biến Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí Tiếp tục tổ chức cho toàn thể cán bộ, đảng
viên, viên chứchọc tập, quán triệt, nghiên cứu, tuyên truyền, phổ biến Luật thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí. Kết hợp với các đợt thi đua, phát động phong
trào phấn đấu thực hiện tốt tiết kiệm, chống lãng phí với thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn phù hợp với tình hình thực tế tại đơn vị. Phổ biến, quán triệt cho
cán bộ, đảng viên, viên chứccác văn bản của Trung ương, của thành phố, của
ngành, tập trung vào các văn bản như: Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí;
Nghị định số 84/2006/NĐ - CP ngày 18/8/2006 của Chính phủ quy định về bồi thường
thiệt hại, xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính trong thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí…. Từ đó từng bước nâng cao nhận thức về thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí trong đảng viên, viên chức và học viên của đơn vị.Đi đôi với những việc làm trên, cần
quan tâm chăm lo cuộc sống cho đảng viên, viên chức, người lao động, trên cơ sở
đó, tuyên truyền vận động toàn thể đảng viên, viên chức và học viên của trường
thực hành tiết kiệm không tổ chức tiệc tùng ăn uống sa hoa, lãng phí với mọi
hình thức. Hai là, cần thực hiện nghiêm túc kỷ luật,
kỷ cương trong đơn vị Xây dựng quy chế làm căn cứ xác định
nghĩa vụ, quyền lợi, trách nhiệm, đánh giá, khen thưởng, xử lý; xây dựng
các tiêu chí văn hóa, văn minh, dân chủ gắn với kỷ cương, kỷ luật nơi công sở.
Lãnh đạo phải quan tâm chỉ đạo, nhắc nhở việc thực hiện nghiêm các quy định của
viên chức, người lao động thuộc quyền quản lý; kiểm tra thường xuyên và đột xuất
việc chấp hành thời gian làm việc của cán bộ viên chức, người lao động để kịp
thời chấn chỉnh, xử lý nghiêm những người vi phạm. Ba là, cần tăng cường giáo dục nâng cao đạo đức
công vụ, xây dựng và phát huy vai trò của văn hóa công sở Để chấn chỉnh ý thức chấp hành thời gian làm việc, bản thân mỗi
người cần nhận thức được ý nghĩa của việc tiết kiệm, nâng cao hiệu quả giờ làm
việc và nhận thức việc sử dụng đúng, sử dụng có hiệu quả giờ làm việc theo quy
định của pháp luật là nghĩa vụ và trách nhiệm của mình. Bên cạnh đó, các khoa,
phòng cũng cần xây dựng văn hóa công sở nhằm hình thành thói quen, phong cách
chấp hành kỷ luật giờ làm việc của cán bộ trong khoa, phòng mình. Bốn là,cần thực hiện công bằng trong đánh giá
hiệu quả làm việc củađảng viên, viên chức đơn vị Để làm tốt việc này, cần có biện pháp
khuyến khích, động viên, khen thưởng kịp thời những cán bộ nghiêm túc chấp hành
kỷ luật lao động, làm việc có hiệu quả cao; đồng thời xử lý nghiêm khắc những
người vi phạm kỷ luật lao động, vi phạm quy định của pháp luật, quy chế của đơn
vị về thời giờ làm việc.Có thể thấy rằng, việc nâng cao hiệu quả sử dụng giờ
làm việc sẽ góp phần rất lớn nâng cao năng suất làm việc của đảng viên, viên chức
trong đơn vị. Năm là, vấn đề
liên quan đến văn phòng phẩm Trước khi định mua đồ dùng văn phòng phẩm cho đơn vị, cán bộ phụ trách mua Văn phòng phẩm cần tập
hợp nhu cầu văn phòng phẩm của mỗi khoa, phòng, rồi lên danh sách những thứ
cần mua. Cách làm này giúp kiểm soát số lượng, chủng loại các đồ dùng cần đặt
mua, tránh việc mua vật dụng văn phòng phẩm này quá nhiều mà không dùng hết gây lãng phí, nhờ
đó, có thể tính toán trước chi phí mua sắm.Đồ dùng văn phòng phẩm, vật tư văn
phòng cần được đặt ở một phòng nhất định, giúp việc phân bổ và giám sát dễ
dàng. Nên thường xuyên giám sát số lượng còn trong kho để biết các phòng, khoa
có sử dụng lãng phí hay không cũng như biết phòng, khoa nào sắp hết để cấp
phát, thu mua kịp thời, phục vụ nhu cầu công việc. Bên cạnh đó cần đưa ra định
mức sử dụng phù hợp với nhu cầu mỗi bộ phận. Sáu là, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình
độ, năng lực chuyên môn cho cán bộ Đào tạo, bồi dưỡng là một nội dung cần phải quan tâm. Đối
với đội ngũ cán bộ, đảng viên của trường, tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng, có thể
đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng nghiệp vụ để nâng cao khả năng đảm nhiệm
công việc. Từ đó nâng cao hiệu quả công tác tổ chức cán bộ. Cần xác định rõ
công việc cho từng vị trí cán bộ, tại mỗi vị trí công tác phải có một "bản
mô tả công việc" hay là “quy trình làm việc”, trong đó, nêu rõ vị trí công
việc là gì, nhiệm vụ chính là gì, chịu trách nhiệm như thế nào. Ngoài ra, phải
tuyệt đối công bằng, khách quan, minh bạch trong tuyển chọn, đề bạt, bổ nhiệm
cán bộ; việc bổ nhiệm cán bộ phải được thực hiện một cách chặt chẽ, khoa học,
dân chủ và nhất thiết phải dựa trên các tiêu chuẩn về năng lực, trình độ, đạo đức
và uy tín. 3. Kết luận Học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là
nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta. Học tập Bác là phải làm theo Bác, học thực chất,
làm thực chất, học và làm theo bằng chính trách nhiệm cán bộ, đảng viên, bằng đạo
đức nghề nghiệp. Hưởng ứng cuộc vân động học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, cán bộ đảng viên trường
chính trị thành phố Cần Thơ đã phát động nhiều phong trào thi đua sâu rộng,
trong đó có thực hành tiết kiệm và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, thiết
thực.Xong, để thực hành tiết kiệm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh đạt hiệu quả cao hơn tại trường chính trị thành phố Cần Thơ cần phải thực
hiện đồng bộ các giải pháp như đã nêu trên. Trước hết, mỗi cán bộ, đảng viên phải
rèn luyện phẩm chất đạo đức, tác phong làm gương về thực hành tiết kiệm. Từ đó
tạo ra sự tin tưởng, đồng thuận trong tập thể, tạo ảnh hưởng tích cực đến mọi
người xung quanh. Trong bối cảnh hiện nay, sự lãng phí còn đang diễn ra ở nhiều
người,nhiều nơi,thì việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh về thực hành tiết kiệm là điều rất cần thiết, giúp bản thân mỗi người được
hoàn thiện hơn, góp phần làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội theo đúng
phương châm “Tiết kiệm là quốc sách”.Thực hiện tốt điều đó thì chúng ta
đã góp phần làm cho tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi ngời sáng trong lòng mỗi
người dân Việt Namvà những lời dạy của Người về
thực hành tiết kiệm mãi còn nguyên giá trị. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đảng
Cộng sản Việt Nam (1961): Văn kiện kỳ họp
thứ 2 Quốc hội khóa II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [2]. Phạm Văn Đồng (1990), Hồ Chí Minh, một con người, một thời
đại, một sự nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [3]. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội. [4]. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội. [5]. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội. [6]. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [7]. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội. ThS. Nguyễn Út Mười - Phòng QLĐT&NCKH |
|