Vận dụng một số nội dung trong lý luận địa tô của C.Mác vào giảng dạy kinh tế chính trị về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Trường Chính trị hiện nay
Tóm tắt: Bài viết khái quát về lý luận địa tô của C.Mác, trong đó
đề cập địa tô chênh lệch (địa tô chênh lệnh I, địa tô chênh lệch II) và địa tô
tuyệt đối. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận địa tô của C.Mác rút ra ý thực tiễn
trong công tác đổi mới chính sách liên quan đến lĩnh vực đất đai hiện nay. Bài
viết góp phần tư liệu nghiên cứu để phục vụ giảng dạy bài 13 thuộc học phần
A.III trong chương trình đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở các trường chính
trị cấp tỉnh. Tóm tắt: Địa tô, chính sách đất đai, giảng dạy kinh tế chính trị 1. Đặt vấn đề Lý luận địa tô tư bản chủ nghĩa của C.Mác
không chỉ vạch rõ bản chất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp
mà còn là cơ sở khoa học để xây dựng các chính sách kinh tế liên quan đến thuế,
đến điều tiết các loại địa tô, đến giải quyết các quan hệ đất đai, v.v.. Tất cả
nhằm kết hợp hài hòa các lợi ích, khuyến khích thâm canh, sử dụng đất đai tiết
kiệm, phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa sinh thái bền vững. Trong
quá trình giảng dạy nội dung địa tô tư bản chủ nghĩa ở Bài 13: Sản xuất hàng
hóa tư bản chủ nghĩa, học phần A.III Chương trình Trung cấp lý luận chính trị,
yêu cầu giảng viên phải cung cấp cho học viên hiểu rõ lý luận địa tô tư bản chủ
nghĩa của C.Mác. Muốn hiểu rõ vấn đề lý luận về địa tô, đòi hỏi giảng viên phải
cung cấp cho học viên một số vấn đề thực tiễn để giúp cho học viên hiểu rõ hơn
lý luận và có thể vận dụng vào thực tiễn công tác. 2. Nội dung 2.1. Khái quát lý
luận địa tô của C.Mác Khi phân tích tư bản kinh doanh nông nghiệp,
C.Mác đã đề cập đến lý luận địa tô. “Địa tô tư bản chủ nghĩa là lợi nhuận siêu
ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp
phải trả cho địa chủ vì đã kinh doanh trên ruộng đất của địa chủ” [3, tr.255]. Địa
tô tư bản chủ nghĩa có nhiều loại hình, trong đó chủ yếu là địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối. Địa tô chênh
lệch là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài
lợi nhuận bình quân được hình thành trên những ruộng đất có điều kiện kinh
doanh trung bình và thuận lợi. Địa tô chênh lệch được tính bằng chênh lệch giữa
giá cả sản xuất chung của nông sản, được hình thành trong những điều kiện kinh
doanh kém thuận lợi nhất, và giá cả sản xuất cá biệt trên những ruộng đất có
điều kiện kinh doanh trung bình và thuận lợi. Địa tô chênh lệch có hai loại:
địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II [3, tr.255]. (1) Địa tô chênh lệch I là địa tô thu được trên cơ sở đất đai có
điều kiện tự nhiên thuận lợi. Chẳng hạn, ruộng đất màu mỡ tự nhiên cao hơn hoặc
ruộng đất ở vị trí thuận lợi hơn (gần nơi tiêu thụ hay đường giao thông thuận
tiện). Ruộng đất có vị trí thuận lợi cũng đem lại địa tô chênh lệch I vì tiết
kiệm được chi phí lưu thông so với những ruộng đất xa thị trường. Khi bán nông
phẩm theo cùng một giá, những người có chi phí vận tải thấp sẽ thu được lợi
nhuận siêu ngạch cao hơn so với những người có chi phí vận tải cao hơn. (2) Địa tô chênh lệch II là địa tô thu
được do thâm canh mà có. Muốn vậy, phải đầu tư thêm tư liệu sản xuất và lao
động trên cùng một khoảnh đất, phải cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao
động, năng suất ruộng đất. Đây là do sự cố gắng chủ quan của người kinh doanh
biết thâm canh để có lợi nhuận siêu ngạch. Khi thời hạn thuê ruộng đất vẫn còn
thì nhà tư bản bằng mọi cách cố gắng khai thác ruộng đất để thu lấy loại địa tô
chênh lệch II này. Khi hợp đồng thuê ruộng đất hết hạn, nếu địa tô chênh lệch
II này vẫn còn thì chủ đất sẽ tìm cách nâng mức địa tô để giành lấy lợi nhuận
siêu ngạch ấy. Vì thế, chủ đất chỉ muốn cho thuê ngắn hạn còn nhà tư bản muốn
thuê dài hạn. Các nhà tư bản không muốn bỏ ra số vốn lớn để thâm canh dài hạn
mà bằng mọi cách tận dụng màu mỡ của đất đai trong thời gian thuê đất. Địa tô tuyệt
đối là địa tô mà tất cả nhà tư bản kinh
doanh nông nghiệp đều phải nộp cho địa chủ dù ruộng đất tốt hay xấu. Đây là địa
tô thu trên tất cả ruộng đất. Trong nông nghiệp, chế độ độc quyền tư hữu rộng
đất không cho phép tư bản tự do di chuyển vốn như trong công nghiệp, nó ngăn
cản việc bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận giữa công nghiệp và nông nghiệp. Vì
thế, nông sản được bán theo giá thị trường và phần giá trị thặng dư dôi ra
ngoài mức lợi nhuận bình quân được giữ lại để nộp địa tô tuyệt đối cho địa chủ.
Địa tô tuyệt đối gắn liền với độc quyền tư hữu ruộng đất cho nên nếu không có
chế độ tư hữu ruộng đất, không còn giai cấp địa chủ thì địa tô này sẽ bị xóa
bỏ, giá cả nông phẩm sẽ hạ xuống có lợi cho xã hội. Trong chủ nghĩa tư bản, không phải chỉ đất đai sử dụng vào
sản xuất nông nghiệp mới phải nộp địa tô, mà tất cả các loại đất - đất xây
dựng, đất hầm mỏ - cũng phải đem lại địa tô cho người sở hữu chúng. Địa tô đất xây dựng về cơ bản được hình
thành như địa tô đất nông nghiệp, nhưng trong việc hình thành loại địa tô này
vị trí của đất đai là yếu tố quyết định nhất, đồng thời loại địa tô này có xu
hướng tăng lên nhanh chóng do sự phát triển của dân số, do nhu cầu về nhà ở
tăng lên và do những tư bản cố định sát nhập vào ruộng đất ngày càng tăng lên. Địa tô hầm mỏ cũng hình thành và được
quyết định như địa tô đất nông nghiệp, nhưng trong quá trình hình thành loại
địa tô này, giá trị của khoáng sản, hàm lượng, trữ lượng của khoáng sản, vị trí
và điều kiện khai thác là những yếu tố quyết định. Địa tô độc quyền được hình thành trên những ruộng đất có thể trồng
những loại cây cho sản phẩm quý hiếm, có giá trị cao, hoặc có những khoáng sản
đặc biệt có giá trị [3, tr.256-257]. Giá cả ruộng
đất: Đất đai trong nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa không chỉ là đối tượng cho thuê mà còn được bán. Giá cả của đất đai không
phải là biểu hiện bằng tiền của giá trị đất đai. Vì đất đai xét một cách thuần
túy tự nhiên thì không phải là sản phẩm của lao động, không có lao động kết
tinh, không có giá trị. Vì vậy, giá cả của đất đai phản ánh quan hệ kinh tế
phái sinh đặc biệt. Giá cả đất đai là địa tô tư bản hóa, được tính theo sự biến
động của địa tô và tỷ suất lợi tức tiền gửi vào ngân hàng [3, tr.257]. 2.2. Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn cần cung cấp cho học viên khi giảng dạy phần lý luận
địa tô của C.Mác Để giúp học viên hiểu rõ hơn ý nghĩa khi nghiên cứu lý luận
địa tô của C.Mác, giảng viên cần cung cấp cho học viên các thông tin sau: Thứ nhất, vận dụng lý luận địa tô chênh lệnh I vào phân loại đất đai
nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất. Nhà nước nhân vùng đất ở
nông thôn, phân hạng đất nông nghiệp để định giá đất, đồng thời đất được chia
thành 3 vùng: đồng bằng, trung du, miền núi. Phân hạng đất để định giá đất áp
dụng để tính thuế sử dụng đất nông nghiệp. Ngoài ra còn phân loại vị trí để xác
định giá đất trong mỗi xã trên nguyên tắc vị trí số 1 có mức sinh lợi cao nhất,
có điều kiện kết cấu hạ tầng thuận lợi nhất, gần trục đường giao thông chính
nhất, các vị trí tiếp sau đó theo thứ tự từ thứ 2 trở đi có mức sinh lợi và
điều kiện kết cấu hạ tầng kém thuận lợi hơn; Phân loại đô thị, đường phố, vị
trí đất trong đô thị của từng loại đất cụ thể để xác định giá đất, theo nguyên
tắc, vị trí số 1 áp dụng đối với đất liền cạnh đường phố (mặt tiền) có mức sinh
lợi cao nhất, có điều kiện kết cấu hạ tầng thuận lợi nhất, các vị trí tiếp sau
đó theo thứ tự từ thứ 2 trở đi áp dụng đối với đất không ở liền cạnh đường phố
có mức sinh lợi và điều kiện kết cấu hạ tầng kém thuật lợi hơn. Thứ hai, vận dụng lý luận địa tô chênh lệnh II vào giao quyền sử dụng
đất nhằm tạo sự ổn định và tăng lợi ích cho người sử dụng đất. Theo quy định
của Luật Đất đai năm 2013, người sử dụng đất được sử dụng đất ổn định lâu dài.
Ví dụ: Thời hạn giao đất, công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp đối với hộ
gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp từ 20 - 50 năm; Thời hạn cho
thuê đất nông nghiệp với hộ gia đình, cá nhân không quá 50 năm; Thời hạn giao
đất, cho thuê đất đối với tổ chức để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; tổ chức, hộ gia đình, cá nhân để sử
dụng vào mục đích thương mại, dịch vụ, làm cơ sở sản xuất xuất phi nông nghiệp;
tổ chức để thực hiện dự án đầu tư; người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được xem xét, quyết định trên cơ
sở dự án đầu tư hoặc đơn xin giao đất, thuê đất nhưng không quá 50 năm…. Thứ ba, vận dụng lý luận địa tô để thực hiện chính sách giảm, miễn
thuế sử dụng đất nông nghiệp trên cơ sở xóa bỏ sử hữu tư nhân, xác lập sở hữu
toàn dân về đất đai. Nhà nước xác định các đối tượng được miễn thuế sử dụng đất
nông nghiệp như: Đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp phục vụ nghiên cứu,
sản xuất thử nghiệm; diện tích đất trồng cây hằng năm có ít nhất một vụ lúa trong
năm; diện tích đất làm muối; Đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp giao cho
hộ nghèo… Đồng thời xác định các đối tượng được giảm thuế theo quy định pháp
luật. Thứ tư, vận dụng lý luận địa tô để xác định đúng giá đất để phát
triển thị trường bất động sản. Việc xác định giá bất động sản sát với thị
trường giúp cho các giao dịch như đánh thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế sử
dụng đất, thế chấp được thực hiện một cách trôi trải. Điều này cũng rất quan
trọng trong việc đánh giá giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa một cách chính
xác, do trước đây giá trị đất đai của các doanh nghiệp nhà nước thường chưa
được tính đến hoặc nếu có thường ở mức thấp khá xa giá trị thị trường. Nếu giá
trị đất đai trong quá trình cổ phần hóa không được đánh giá lại thì ngân sách
nhà nước sẽ bị thất thoát lớn. Ngoài ra, xác định chính xác giá đất sẽ tránh
được các tranh chấp về giá, giá cả đền bù, thu hồi quyền sử dụng đất khi giải
phóng mặt bằng để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội, các dự án
công cộng, phúc lợi, xã hội. Giảm thiểu bớt các vụ khiếu nại của quần chúng
nhân dân do giá cả đền bù chưa thỏa đáng, góp phần thúc đẩy tiến độ triển khai
thực hiện các dự án trên thực tế. Có thể thấy, lịch sử cách mạng Việt Nam và thực tiễn hơn 35
năm đổi mới, Đảng ta có nhiều chủ trương đổi mới về đất đai và đạt được nhiều
thành tựu. Đảng ta đã có chính sách giao đất cho nông dân sử dụng lâu dài và mở
rộng các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế; đồng
thời cũng đã từng có chủ trương khóan 100, khoán 10 đã giải phóng sức lao động
của nông dân tạo bước chuyển biến cơ bản trong sản xuất nông nghiêp và xã hội
nông thôn; chủ trương “người cày có ruộng” đã tập hợp được lực lượng, tạo thành
khối liên minh công nông vững chắc. Tất cả chủ trương, chính sách này đã góp
phần giải phóng sức lao động, nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế xã hội
của đất nước. Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX đã xác định 05 quan điểm, trong đó khẳng định đất đai là nguồn nội lực
và nguồn vốn to lớn của đất nước; quyền sử dụng đất là hàng hoá đặc biệt; phải
được sử dụng đất đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả, phát huy tối đa tiềm
năng, nguồn lực đất đai. Đồng thời Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI cũng khẳng định: Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật
về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng đế
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Vừa
qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW
ngày 16/6/2022 về “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành
nước phát triển có thu nhập cao”. Nghị quyết đã xác định 05 quan điểm: Thứ nhất, Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu thông qua
việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thu hồi đất, giao đất, cho
thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng và quy
định thời hạn sử dụng đất; quyết định giá đất; quyết định chính sách điều tiết
phần giá trị tăng thêm từ đất không phải do người sử dụng đất tạo ra. Nhà nước
thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế
- xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng theo quy định của pháp luật, bảo đảm
công bằng, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình. Quản lý và sử
dụng đất phải bảo đảm lợi ích chung của toàn dân; nhân dân được tạo điều kiện
tiếp cận, sử dụng đất công bằng, công khai, hiệu quả và bền vững. Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo lãnh thổ quốc gia,
cả về diện tích, chất lượng, giá trị kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an
ninh, môi trường; phân công hợp lý giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương, đồng
thời có sự phân cấp, phân quyền phù hợp, hiệu quả đối với địa phương và tăng
cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát, xử lý vi phạm. Thứ hai, Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hoá đặc biệt
nhưng không phải là quyền sở hữu; quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất
được pháp luật bảo hộ. Người sử dụng đất có quyền và nghĩa vụ sử dụng đất theo
quy định của pháp luật. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được Nhà
nước giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách, pháp
luật về đất đai; không điều chỉnh lại đất nông nghiệp đã giao cho hộ gia đình,
cá nhân; kịp thời có chính sách phù hợp để đất nông nghiệp được khai thác, sử
dụng với hiệu quả cao nhất. Thứ ba, Thể chế, chính sách về đất đai phải được hoàn thiện đồng bộ
và phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Có chính sách phù hợp với từng đối tượng, loại hình sử dụng đất để khơi
dậy tiềm năng, phát huy cao nhất giá trị nguồn lực đất đai; kiên quyết khắc
phục tình trạng tham nhũng, tiêu cực, khiếu kiện về đất đai, đầu cơ và sử dụng
đất đai lãng phí. Thứ tư, Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai.
Hiện đại hoá công tác quản lý, dịch vụ công về đất đai. Củng cố, hoàn thiện hệ
thống tổ chức bộ máy quản lý đất đai tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, tập trung,
đồng bộ, thống nhất. Nâng cao vai trò và năng lực các cơ quan tư pháp trong giải
quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai. Đất đai phải được điều tra,
đánh giá, thống kê, kiểm kê, lượng hoá, hạch toán đầy đủ trong nền kinh tế;
được quy hoạch sử dụng hiệu quả, hợp lý với tầm nhìn dài hạn, hài hoà lợi ích
giữa các thế hệ, các vùng, miền, giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm
quốc phòng, an ninh; phát triển giáo dục, văn hoá, thể thao; bảo vệ môi trường
và thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Giải
quyết tốt những bất cập, vướng mắc trong quản lý và sử dụng đất do lịch sử để
lại và từ yêu cầu mới của thực tiễn. Thứ năm, Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong xây
dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai. 3. Kết vấn đề Hiện nay, công tác quản lý sử dụng đất đai ngày càng được
Đảng, Nhà nước quan tâm. Việc quản lý và sử dụng đất đai đã có nhiều chuyển
biến và thay đổi theo hướng tích cực, từng bước phù hợp với điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh
đó chính sách quản lý và sử dụng đất vẫn còn một số tồn tại nhiều vấn đề bất
cập cần được giải quyết. Mới chỉ nghe về đất thì chúng ta tưởng chừng như đây
là vấn đề của nông nghiệp nhưng thực tế hoàn toàn khác đây là một trong những
vấn đề quan trọng trong các dự án phát triển kinh tế sau này, thuê đất ở đâu để
kinh doanh, tiền thuê đất như thế nào, hay khi kinh doanh nông nghiệp thì tiền
thuê đất là bao nhiêu, nghĩa vụ như thế nào? Việc nghiên cứu lý luận địa tô của
C.Mác có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng trong việc đổi mới các chính
sách về đất đai ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tài liệu tham khảo: 1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (2022),
Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 về
“Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có
thu nhập cao” 2. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994): Toàn tập, tập 25, phần II, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội. 3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021),
Giáo trình Trung cấp lý luận chính trị -
Nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội. 4. Viện Kinh tế Chính trị học - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2022), |