Nghiên cứu khoa học - thực tế
Sự cần thiết của chuyển đổi số tại Trường Chính trị thành phố Cần Thơ


Tóm tắt: Bài viết khẳng định sự cần thiết trong việc chuyển đổi số tại các cơ sở giáo dục nói chung và trường chính trị nói riêng. Khái quát một số thành tựu, dự báo một số khó khăn trong chuyển đổi số tại Trường Chính trị thành phố Cần Thơ và đề ra một số giải pháp cho việc chuyển đổi số trong thời gian tới góp phần xây dựng Trường Chính trị thành phố Cần Thơ đạt chuẩn theo Quy định số 11-QĐ/TW của Ban Bí thư.

Từ khóa: Chuyển đổi số trong giáo dục; Sự cần thiết của chuyển đổi số tại trường chính trị; Trường chính trị thành phố Cần Thơ.

1. Đặt vấn đề

Chuyển đổi số đang là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Chuyển đổi số được triển khai trong tất cả các lĩnh vực trong đó có giáo dục. Trường chính trị cấp tỉnh là đơn vị sự nghiệp của Đảng, vừa là cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức (là cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đặc thù của Đảng), hiện nay việc chuyển đổi số chủ yếu chủ yếu dừng lại việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, giảng dạy, nghiên cứu khoa học. Việc chuyển đổi số tại các trường chính trị hiện nay được xem là vấn đề mới cần được quan tâm nghiên cứu. Bài viết khẳng định sự cần thiết của chuyển đổi số tại trường chính trị nói chung. Việc nghiên cứu thực trạng và đề ra giải pháp trong việc chuyển đổi số tại Trường Chính trị thành phố Cần Thơ là tiếp cận bước đầu của việc nghiên cứu chuyển đổi số tại trường chính trị với hy vọng góp giải pháp trong việc triển khai thực hiện đạt mục tiêu xây dựng trường chính trị đạt chuẩn theo Quy định số 11-QĐ/TW ngày 19/5/2021 của  Ban Bí thư về trường chính trị chuẩn.

2. Nội dung

2.1. Chuyển đổi số trong giáo dục và sự cần thiết chuyển đổi số tại trường chính trị

Đề án chuyển đổi số quốc gia định nghĩa “Chuyển đổi số là việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi một cách tổng thể và toàn diện tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội, tái định hình cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau”. Thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số trong giáo dục là chìa khóa nâng cao hoạt động, mang lại cơ hội áp dụng công nghệ để tạo ra những thay đổi nhanh chóng về mô hình, cách thức tổ chức và phương pháp dạy - học. Dữ liệu lớn sẽ là nguồn dữ liệu vô tận để nghiên cứu, giảng dạy và học tập. Tài nguyên học tập số trong điều kiện kết nối không gian thật và ảo sẽ vô cùng phong phú, không gian thư viện không còn là địa điểm cụ thể, mà thư viện có thể khai thác mọi lúc mọi nơi. Công nghệ điện toán đám mây với đặc điểm là mô hình dịch vụ lưu trữ thông tin quy mô lớn được ứng dụng cao trong các hoạt động quản lý và đào tạo. Các cơ sở giáo dục có thể hợp tác với nhau để xây dựng một kho lưu trữ thông tin (thư viện số, học liệu, công trình nghiên cứu khoa học…) theo mô hình lưu trữ tập trung ảo nhằm giảm chi phí lưu trữ để duy trì kho dữ liệu giáo dục. Bên cạnh đó, toàn bộ dữ liệu về quá trình học tập của người học cũng được theo dõi và lưu trữ bằng công nghệ chứ không phải thông qua hệ thống hồ sơ sổ sách thông thường. Việc số hóa thông tin quản lý, tạo ra những hệ thống cơ sở dữ liệu lớn liên thông, triển khai các dịch vụ trực tuyến, ứng dụng các công nghệ số để quản lý, điều hành, dự báo, hỗ trợ ra quyết định một cách nhanh chóng, chính xác. Trong quản lý đầu ra, cần sử dụng những công nghệ để hỗ trợ bảo đảm việc đào tạo, đánh giá, kiểm tra, công nhận kết quả và cấp bằng, chứng chỉ. Chuyển đổi số sẽ kéo theo các thay đổi cơ chế quản lý, thay đổi cơ cấu tổ chức bên trong, tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ, chuyển đổi các mối quan hệ, quy trình xử lý thông tin, ra quyết định và giải quyết công việc từ môi trường truyền thống sang môi trường số, cũng như thay đổi việc quản trị các nguồn lực trong cơ sở giáo dục.

Đối với hệ thống các trường chính trị, tác giả bài viết cho rằng: “Chuyển đổi số chính là việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để thực hiện quá trình lãnh đạo, quản lý, điều hành và thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn, nghiệp vụ trên nền tảng công nghệ số và môi trường internet để thay đổi toàn diện các mặt hoạt theo động của trường chính trị từ mô hình truyền thống sang mô hình số”.

Để xây dựng trường chính trị đạt chuẩn, ngày 19/5/2021 Ban Bí thư ban hành Quy định số 11-QĐ/TW về trường chính trị chuẩn. Quy định ban hành 06 nhóm tiêu chí. Trong đó, nhóm tiêu chí số 6 về “Xây dựng cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và tài chính” xác định đạt một trong những chỉ tiêu đạt tiêu chí số 6 của chuẩn mức 1 là “Có đủ cơ sở vật chất và phương tiện kỹ thuật phục vụ việc dạy, học và nghiên cứu đáp ứng yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn; bảo đảm tăng quy mô đào tạo tập trung”, xác định chuẩn mức 2 là “Có cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật hiện đại, ứng dụng các công nghệ tiên tiến, phục vụ hiệu quả hoạt động quản lý, giảng dạy, học tập và nghiên cứu” [1].

Ngoài ra, Quyết định số 587/QĐ-TTg ngày 17/5/2019 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giai đoạn 2019 - 2030. Đề án xác định nhiệm vụ “Khảo sát, xây dựng bộ cơ sở dữ liệu về năng lực, trình độ, kỹ năng, phương pháp nghiên cứu và giảng dạy của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Học viện và các trường chính trị cấp tỉnh” [4]. Ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, xác định lĩnh vực giáo dục là một trong các lĩnh vực cần ưu tiên chuyển đổi trước [5]. Ngày 25/01/2022 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 131/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022 - 2025, định hướng đến năm 2030 [6].

Như vậy, Căn cứ các cơ sở lý luận và pháp lý nêu trên, Trường chính trị cấp tỉnh là đơn vị sự nghiệp của Đảng, vừa là cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức (là cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đặc thù của Đảng) cũng được xem là đơn vị tiên phong, ưu tiên hàng đầu trong chuyển đổi số.

2.2. Thực trạng chuyển đổi số tại Trường Chính trị thành phố Cần Thơ

2.2.1. Thành tựu

Những năm qua, Trường Chính trị thành phố Cần Thơ từng bước thực hiện việc chuyển đổi số góp phần nâng cao chất lượng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Trường. Đặc biệt, khi tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp thì việc chuyển đổi số được triển khai thực hiện rộng rãi.

Thứ nhất, những dấu hiệu đầu tiên cho thấy việc chuyển đổi số tại Trường. Để bắt kịp xu thế phát triển của xã hội, từ khá lâu Trường đã ứng dụng việc phát hành văn bản scan chuyển phát hành trên mail điện tử. Khi nền tảng mạng xã hội Zalo phát triển đã triển khai thực hiện chế độ thông tin, phối hợp làm việc trên nền tảng Zalo (thời điểm này chủ yếu phát hành văn bản để kịp thời truyền tải thông tin). Đến năm 2019, Trường đã đề nghị cơ quan chức năng cấp cho Trường chữ ký số dùng chung cho Ban Giám hiệu để ký số văn bản đối với các chức danh thành viên Ban Giám hiệu và các chức danh viên chức quản lý khoa, phòng ký thừa lệnh Hiệu trưởng, các văn bản này được phát hành số ra khỏi Trường và được các cơ quan, đơn vị ngoài trường tiếp nhận, công nhận về mặt pháp lý (Đây là pháp lý quan trọng đầu tiên của việc chuyển đổi số trong việc ký phát hành số các văn bản quản lý, điều hành). Để tiếp tục nâng cấp, chuyển đổi số trong lĩnh vực này, năm 2021 Trường đã đề nghị Sở Thông tin và truyền thông thành phố cung cấp, chuyển giao, hỗ trợ cài đặt và tập huấn cho Trường triển khai áp dụng Hệ thống quản lý văn bản điều hành thành phố Cần Thơ. Có thể thấy, đây là nền tảng số thông minh, ứng dụng đa dạng nhiều chức năng như: xử lý văn bản đến, văn bản đi, hồ sơ công việc điện tử, sắp lịch điện tử, trao đổi nội bộ, theo dõi tình hình xử lý công việc… Ngoài ra, Trường đã đầu tư Hệ thống họp trực tuyến Polycom và đã kết nối trực tuyến với các điểm cầu trong hệ thống trực tuyến của Thành ủy, UBND thành phố Cần Thơ qua đường truyền VNPT vào năm 2018 và đến năm 2020 đã mở rộng kết nối thông suốt với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và hệ thống các trường chính trị trong cả nước để trao đổi chuyên môn, nghiệp vụ, hội nghị, hội thảo... Cũng tại thời điểm này, Trường đã triển khai thực hiện việc quản lý học viên thông qua hệ thống camera khối giảng đường để theo dõi, quản lý từ xa về chất lượng giảng dạy, học tập và việc chấp hành nội quy, quy chế của giảng viên, học viên.

Thứ hai, việc chuyển đổi số được triển khai thực hiện mạnh mẽ khi tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp. Trường đã áp dụng việc quét mã QR-Code trong hoạt động quản lý để phòng, chống dịch bệnh. Trong điều kiện dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, để đáp ứng yêu cầu mới trong công tác đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện chủ trương đào tạo trực tuyến của Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trường đã nhanh chóng triển khai các hoạt động “chuyển đổi số” đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Trường đã có giải pháp khai thác hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin trong triển khai các phòng họp trực tuyến và phòng giảng dạy trực tuyến tại Trường thông qua hệ thống Polycom, bàn họp không giấy; nhanh chóng tiếp cận việc kết nối trực tuyến qua phần mềm Microsoft Teams, cấp tài khoản cá nhân cho viên chức và học viên để tổ chức trực tuyến nhiều phiên như: Hội thảo khoa học các cấp, khai giảng, bế giảng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là chuyển công năng 06 phòng giảng trực tuyến để chuyển sang đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến trong lúc dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp.

Thứ ba, có thể thấy việc chuyển đổi số triển khai rộng rải nhất trong 02 năm qua là việc thích ứng nhanh, linh hoạt trong đợt tập huấn giáo trình trực tuyến dài ngày nhất và có quy mô lớn nhất của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh từ trước đến nay được diễn ra từ ngày 14/6 đến 27/7/2021. Trường đã triển khai kịp thời cho toàn thể giảng viên được tham dự đầy đủ (trước đây việc tập huấn giáo trình chỉ dừng lại việc cử một vài viên chức ra Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh để dự tập huấn trực tiếp). Điều này tiết kiệm rất nhiều kinh phí cho Trường trong hoạt động.

2.2.2. Dự báo một số khó khăn

Thời gian qua, việc chuyển đổi số tại Trường Chính trị thành phố Cần Thơ bước đầu gặp những khó khăn nhất định.

Thứ nhất, Về nhận thức. Một trong những yếu tố quyết định sự thành công của chuyển đổi số chính là từ nhận thức, tư duy và đi đến hành động chuyển đổi số trong đội ngũ viên chức lãnh đạo, quản lý và triển khai lan tỏa đến toàn thể đội ngũ viên chức, người lao động và học viên. Nếu như có trường hợp chưa ủng hộ quá trình chuyển đổi số trong hoạt động hoặc quen với cách làm việc theo lối mòn “thủ công”, “ngại tiếp cận” nền tảng công nghệ chuyển đổi số. Đây có thể là một trong những rào cản trong triển khai thực hiện.

Thứ hai, Về nền tảng công nghệ số, hạ tầng công nghệ, viễn thông. Hiện nay, Trường chưa đảm bảo kinh phí cho việc đầu tư, nâng cấp hiện đại hóa trang thiết bị, công nghệ thông tin và các phần mềm quản lý, điều hành, trang thông tin điện tử chưa được đầu tư nâng cấp chuyên nghiệp, thiếu hệ thống máy chủ, dữ liệu lớn (Big Data)… hệ thống camera quản lý chưa đủ và chưa hiện đại.

Thứ ba, Về nguồn nhân lực cho việc chuyển đổi số. Trường chưa có đội ngũ chuyên môn về công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu mới trong việc chuyển đổi số. Nguồn nhân lực hiện tại chưa đáp ứng và chưa theo kịp thực tiễn phát triển gắn với hoạt động chuyển đổi số của quốc gia, của xã hội và trong hệ thống các trường chính trị.

Thứ tư, Về số hóa, đồng bộ hóa dữ liệu. Hiện nay việc số hóa dữ liệu trong hoạt động quản lý, điều hành và hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ còn gặp nhiều khó khăn, còn quản lý thủ công. Thư viện số của Trường chỉ mới dừng lại từ việc chia sẻ nguồn dữ liệu của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Chỉ mới bước đầu triển khai phần mềm quản lý đào tạo và tiếp nhận và phát hành văn bản số thông qua hệ thống văn bản quản lý điều hành.

2.3. Giải pháp

Thứ nhất, Chuyển đổi số trước tiên là chuyển đổi nhận thức. Để thực hiện chuyển đổi số thành công, trước hết đòi hỏi có sự quyết tâm thay đổi của người đứng đầu, tập thể người đứng đầu. Bên cạnh đó, cần có sự đồng bộ về nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm của đội ngũ viên chức quản lý, viên chức, người lao động và học viên trong triển khai thực hiện chuyển đổi số trong các hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành và chuyên môn, nghiệp vụ tại Trường.

            Thứ hai, Cần có chiến lược, kế hoạch cụ thể trong từng giai đoạn trong việc chuyển đổi số tại Trường. Cần tập trung vào các nội dung chủ đạo như: số hóa thông tin quản lý, điều hành của phòng chức năng, khoa chuyên môn; nghiên cứu triển khai “Cổng dịch vụ trực tuyến hoặc Hệ thống thông tin một cửa điện tử” để quản trị, điều hành các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của Trường nhằm cắt giảm bớt quy trình, thủ tục hướng đến việc quản trị hiện đại trong toàn Trường (như: tương tác với học viên trên nền tảng công nghệ số, tiếp nhận hồ sơ, thủ tục, giải quyết thắc mắc, yêu cầu của học viên trên nền tảng số, phối hợp, tương tác trong thực hiện chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ viên chức trên nền tảng số…); ứng dụng Big Data để lưu trữ, quản lý, điều hành, dự báo, hỗ trợ ra quyết định quản lý và chuyển đổi số trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá, nghiên cứu khoa học bao gồm: số hóa học liệu (giáo trình, bài giảng điện tử, hệ thống quản lý, ngân hàng câu hỏi, file dữ liệu khóa luận, tiểu luận cuối khóa để rà soát trùng lắp…), thư viện số, hệ thống hội thảo, tọa đàm trực tuyến.

            Thứ ba, Cần đầu tư trang thiết bị hiện đại, công nghệ, viễn thông, phần mềm và đội ngũ kỹ thuật viên với nguyên tắc đảm bảo an ninh mạng và an toàn dữ liệu cho việc chuyển đổi số. Nền tảng hạ tầng công nghệ thông tin, cơ sở vật chất cơ bản phải được trang bị đồng bộ bảo đảm việc quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ; bảo đảm môi trường mạng thông suốt, ổn định, an toàn thông tin. Đi kèm với thiết bị phần cứng là các ứng dụng phần mềm, các nền tảng công nghệ số để mọi hoạt động diễn ra, bảo đảm tính tương thích và kết nối với nhau. Ngoài ra, bảo đảm an toàn, an ninh mạng là then chốt để chuyển đổi số thành công và bền vững. Mọi thiết bị, sản phẩm, phần mềm, hệ thống thông tin, dự án đầu tư về công nghệ thông tin đều có cấu phần bắt buộc về an toàn, an ninh mạng theo quy định.

            Thứ tư, Cần bố trí đủ nguồn lực tài chính, nguồn nhân lực cho việc chuyển đổi số tại Trường.

            Thứ năm, Chủ động trong việc liên kết với các cơ sở đào tạo, hệ thống các trường chính trị cấp tỉnh và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh để chia sẻ kho học liệu số dùng chung. Phát triển thư viện điện tử, đưa cổng thư viện số lên Trang thông tin điện tử của Trường và liên kết với hệ thống các thư viện điện tử khác để khai thác tài nguyên học liệu số phục vụ trong quá trình nghiên cứu của giảng viên và học viên.

            Thứ sáu, Cần có kế hoạch cụ thể trong việc triển khai thực hiện tiêu chí số 06 về “Xây dựng cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và tài chính” theo Quy định số 11-QĐ/TW ngày 19/5/2021 của Ban Bí thư về trường chính trị chuẩn gắn với việc chuyển đổi số tại Trường.

            Thứ bảy, Cần có cơ chế khen thưởng, động viên khích lệ việc đổi mới sáng tạo, cách làm hay, dám nghĩ, dám làm trong việc chuyển đổi số tại Trường thông qua các sáng kiến kinh nghiệm trong quản lý, điều hành và thực thi nhiệm vụ của đội ngũ viên chức, người lao động.

            3. Kết vấn đề

            Việc chuyển đổi số không phải một sớm một chiều có thể triển khai thành công. Nếu quyết tâm thì sẽ thành công và đặc biệt “muốn quản trị thông minh cần có nhân lực quản trị thông minh”. Vì thế, nhân tố con người là nhân tố quan trọng nhất cho quá trình chuyển đổi số. Chúng ta đang sống trong thời đại 4.0 nếu không bắt kịp xu hướng chuyển đổi số của xã hội thì sẽ lạc hậu. Để Trường Chính trị thành phố Cần Thơ đạt chuẩn, ngoài các tiêu chí quan trọng khác trong thực hiện các tiêu chí trường chính trị chuẩn theo Quy định số 11-QĐ/TW của Ban Bí thư, thiết nghĩ việc chuyển đổi số là một việc làm rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

 

Tài liệu tham khảo

1. Ban Bí thư (2021), Quy định số 11-QĐ/TW ngày 19/5/2021 về trường chính trị chuẩn.

2. Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

4. Thủ tướng Chính phủ (2019), Quyết định số 587/QĐ-TTg ngày 17/5/2019 về phê duyệt Đề án nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giai đoạn 2019 - 2030.

5. Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.