Nghiên cứu khoa học - thực tế
Những kinh nghiệm vận dụng những điểm mới trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng vào soạn, giảng bài “Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức”


Tóm tắt:

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam là những định hướng phát triển đất nước, là một trong những phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng, thể hiện ý chí, vai trò của Đảng đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, sau khi Nghị quyết được ban hành, việc đưa Nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống là nhiệm vụ quan trọng, then chốt. Trong bài viết này, tác giả nêu những kinh nghiệm vận dụng những điểm mới, cốt lõi về công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng thời kì đổi mới vào giảng dạy bài “Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức” thuộc phần học Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam.

1. Mở đầu

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (01/2021) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra những quyết sách mang tính chiến lược, toàn diện về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam trong tình hình mới. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII (ĐH XIII) là sự kế thừa và phát triển những nội dung cơ bản của đường lối đổi mới, đặc biệt kế thừa nội dung Văn kiện Đại hội XII và được bổ sung bằng những tư tưởng tiến bộ, khoa học của thời đại. Trong bài viết này, tôi xin đề cập một số kinh nghiệm vận dụng nội dung mới trong đường lối CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức của Việt Nam và những kinh nghiệm khi vận dụng vào giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy bài “Đẩy mạnh CNH, HĐHgắn với phát triển kinh tế tri thức” thuộc phần đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam.

2. Nội dung

2. 1. Những điểm mới về CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ởĐH XIIIcủa Đảng

ĐH XIII kế thừa những nội dung trên nhưng nhấn mạnh những nội dung cốt lõi cần thực hiện cho giai đoạn tới phù hợp với điều kiện, bối cảnh trong nước và quốc tế, nhất là tận dụng tiến bộ khoa học và công nghệ nói chung, thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nói riêng. Trước hết, ĐH XIII đề cập tới việc điều chỉnh bổ sung, nâng cao chất lượng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nền kinh tế, các ngành, lĩnh vực, các vùng phù hợp với thực tiễn đất nước và trình độ phát triển khoa học công nghệ hiện đại trên thế giới. Đẩy mạnh nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng, phát triển, làm chủ công nghệ hiện đại; phát triển một số sản phẩm chủ lực có thương hiệu mạnh, có uy tín trong khu vực và thế giới. Nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, tạo cơ sở đấy mạnh phát triển kinh tế số. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 Đảng ta nhấn mạnh: "Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực, thế giới" [1, tr235].Điểm mới trong nội dung này thể hiện rất rõ CNH, HĐH phải dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, tận dụng tốt cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để có sự bứt phá, vượt lên trong một số ngành và lĩnh vực. Đồng thời, xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh chú trọng cả những ngành công nghiệp nền tảng và những ngành mới, công nghệ cao quyết định sự bứt phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế.

Tiếp tục thực hiện chủ trương cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh. Điểm mới nổi bật là xác định mối quan hệ giữa nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh bằng các biện pháp cụ thể như cơ chế, chính sách phát triển, ưu tiên khoa học và công nghệ, gắn nông nghiệp với công nghiệp và thị trường...

Về phát triển khu vực dịch vụ,ĐH XIII nhấn mạnh: "Phát triển mạnh khu vực dịch vụ dựa trên nền tảng ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, nhất là các dịch vụ có giá trị gia tăng cao"[1, tr125]. Văn kiện cũng nêu rõ một số loại dịch vụ cần tập trung ưu tiên phát triển như: du lịch, thương mại, viễn thông, công nghệ thông tin, vận tải, logistics, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ tư vấn pháp lý,... Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, dịch vụ y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, dịch vụ văn hóa thể thao, dịch vụ thương mại.

Về phát triển kinh tế biển, ĐH XIII đề cập nội dung này một cách tổng thể, trong đó chú ý phát triển kinh tế biển gắn với an ninh, quốc phòng, phát triển kinh tế gắn với môi trường và phòng, chống thiên tai; phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế và đô thị ven biển. Cụ thể, Văn kiện nêu rõ: "Thực hiện tốt Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, tài nguyên, môi trường biển; phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo. Tổ chức tốt việc xây dựng và quản lý thống nhất quy hoạch không gian biển quốc gia, hoàn thiện cơ chế quản lý tổng hợp và chuyên ngành về biển, đảo. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật trên biển, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Đẩy mạnh phát triển và nâng cao hiệu quả các ngành kinh tế biển, các khu kinh tế, khu công nghiệp và các đô thị ven biển. Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển, nhất là nhân lực chất lượng cao. Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, điều tra tài nguyên, môi trường biển; xây dựng cơ sở dữ liệu số về biển, đảo, nâng cao năng lực giám sát môi trường biển, dự báo thiên tai, biến đổi khí hậu vùng biển, ven biển" [1,tr.125-126].

Về nội dung phát triển đô thị, ĐH XIII đề cập gọn hơn, tập trung vào hoàn thiện thể chế phát triển đô thị và kinh tế đô thị, nhấn mạnh xây dựng đô thị văn minh, thông minh phù hợp với văn hóa vùng, miền. Văn kiện nêu rõ: "Xây dựng chiến lược, hoàn thiện thể chế phát triển đô thị và kinh tế đô thị làm động lực phát triển từng vùng và địa phương; tăng cường quản lý đô thị, phát triển các đô thị vệ tinh, hạn chế xu hướng tập trung quá mức vào các đô thị lớn. Xây dựng đô thị hiện đại, văn minh, đô thị thông minh, đa dạng về loại hình, có bản sắc đặc trưng về kiến trúc, văn hóa ở từng địa phương" [1, tr.126].

Xây dựng kết cấu hạ tầng được khẳng định là nội dung rất quan trọng trong lĩnh vực kinh tế. Đây được xác định là một trong ba đột phá chiến lược, đến nay nội dung này vẫn còn nguyên ý nghĩa. Tuy nhiên, trong thời gian tới cần tập trung vào những trọng tâm mới để giải quyết được những vấn đề còn tồn tại đến nay và đáp ứng yêu cầu phát triển mới. ĐH XIII nêu rõ: "Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại. Tập trung ưu tiên đầu tư, sớm đưa vào sử dụng các công trình, cụm công trình, dự án hạ tầng trọng điểm về giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không kết nối các vùng, khu vực, các trung tâm trong nước và quốc tế"[1, tr.126-127]. Đặc biệt, ĐH XIII nhấn mạnh đến phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông, tạo ra sự phát triển đột phá trong lĩnh vực này. Đây chính là cơ hội để tạo sự chuyển biến căn bản, hiệu quả sản xuất trong việc tận dụng cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại. Tạo bứt phá trong phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông, xây dựng, kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 nêu rõ: "Xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin; hình thành hệ thống trung tâm dữ liệu quốc gia, các trung tâm dữ liệu vùng và địa phương kết nối đồng bộ và thống nhất. Phát triển hạ tầng số đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN; internet băng thông rộng phủ 100% các xã. Xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, bảo đảm hạ tầng kỹ thuật an toàn, an ninh thông tin"[1, tr.127]

Về phát triển kinh tế vùng, liên vùngĐH XIIInhấn mạnh đến nâng cao chất lượng quy hoạch vùng; đổi mới, hoàn thiện thể chế quản lý vùng có hiệu quả, phát huy tốt nhất tiềm năng, lợi thế của từng vùng, tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng. Sáp nhập hợp lý một số đơn vị hành chính cấp xã, huyện, phù hợp với điều kiện, yêu cầu phát triển mới. Đổi mới cơ chế phân cấp, phân quyền, ủy quyền gắn với phân định và nâng cao trách nhiệm của Trung ương và địa phương.

2.2. Một số kinh nghiệm vận dụng những nội dung mới, cốt lõi trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào giảng dạy bài CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức

Vấn đềCNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là vấn đề trọng tâm trong công cuộc đổi mới, phát triển toàn diện đất nước. Vì vậy, giảng dạy đường lối CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thứccho đối tượng học viên ở Trường Chính trị nói chung và Trường chính trị thành phố Cần Thơ nói riêng đòi hỏi giảng viên phải có cách thức linh hoạt trong việc kết hợp những kiến thức sẵn có trong giáo trình với những vấn đề mới, cốt lõi từ Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Qua thực tiễn giảng bàiCNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức,Tôi xin nêu một số kinh nghiệm như sau:

Thứ nhất, khi giảng dạy mục tiêu phát triển CNH, HĐHgắn với kinh tế tri thức trên cơ sở tiếp nối mục tiêu của Đảng trong phần Đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước Việt Nam, nhận diện những điểm mới, cốt lõi như đã trình bày ở trên, giảng viên cần xác định mục tiêu tổng quát của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào bài học. Đó là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỉ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[1, tr.111-112]. Đồng thời, giảng viên có thể nêu vần đề cho học viên thảo luận, làm rõ mục tiêu cụ thể đã được Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra: Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Giảng viên yêu cầu học viên thảo luận làm rõ các tiêu chí: Vượt mức thu nhập trung bình thấp; thu nhập trung bình cao và phát triển, thu nhập cao. Sau khi học viên trình bày kết quả thảo luận, các nhóm tranh luận thì giảng viên đưa ra dẫn chứng để làm sáng tỏ các tiêu chí này. Như vậy, việc lồng ghép những điểm mới, cốt lõi trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào giảng dạy nội dung mục tiêu phát triển CNH, HĐH đất nước sẽ giúp học viên có cách nhìn tổng thể, toàn diện sự phát triển kinh tế đất nước theo lộ trình được xác định cụ thể, rõ ràng hơn.

Thứ hai, giảng viên cần chuyển tải tới học viên quan điểm về CNH, HĐHcủa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào những vấn đề sau: Đối với quan điểm CNH, HĐH, điểm mới, cốt lõi của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khi giảng viên vận dụng giảng dạy cần làm rõ vấn đề: “khởi nghiệp sáng tạo”; vấn đề “ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học và công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”; vấn đề “chuyển đổi số trong phát triển kinh tế”. Qua đó, giảng viên định hướng cho học viên suy nghĩ, tìm tòi, nghiên cứu và hành động theo khả năng của mình.

Thứ ba, trên cơ sở bám sát những định hướng về CNH, HĐH đất nước,trong bài nàygiảng viên cần đi sâu, nhấn mạnh những vấn đề sau: Định hướng CNH, HĐH đất nước, giảng viên khi trình bày nội dung phát triển công nghiệp, cần giúp học viên hiểu rõ hơn về việc nâng cao tiềm lực khoa học - công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, tạo cơ sở đẩy mạnh, phát triển kinh tế số. Trong định hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân, giảng viên đi sâu phân tích việc xác định mối quan hệ giữa nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh bằng các biện pháp cụ thể như cơ chế chính sách phát triển, ưu tiên khoa học - công nghệ, gắn nông nghiệp với công nghiệp và thị trường.

Về định hướng dịch vụ, giảng viên cần giải thích cho người học thấy được sự cần thiết phải phát triển mạnh khu vực dịch vụ dựa trên nền tảng ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, nhất là các dịch vụ có giá trị gia tăng cao và vấn đề tổ chức cung ứng dịch vụ chuyên nghiệp, văn minh, hiện đại theo chuẩn mực quốc tế. Trong nội dung phát triển kinh tế biển, những điểm mới, cốt lõi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đòi hỏi giảng viên phải giải thích cho học viên thấy được vấn đề phát triển kinh tế biển được khẳng định thêm phát triển kinh tếbiển gắn với an ninh - quốc phòng, phát triển kinh tế gắn với môi trường và phòng, chống thiên tai; phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế và đô thị ven biển.

Trong phát triển kinh tế liên vùng, giảng viên cần chú trọng chuyển tải tới người học nội dung để phát triển kinh tế vùng, liên vùng, cần xây dựng quy hoạch, tổ chức không gian lãnh thổ quốc gia một cách hợp lí, phát huy tốt nhất các lợi thế đặc thù của mỗi vùng, địa phương và tăng cường tính liên kết nội vùng và liên vùng để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, tạo không gian phát triển mới. Sau đó, giảng viên hướng dẫn học viên liên hệ thực tiễn ở địa phương mình. Về phát triển đô thị, giảng viên phải giải thích cho học viên thấy được việc hoàn thiện thể chế phát triển đô thị và kinh tế đô thị, xây dựng đô thị văn minh, thông minh phù hợp với văn hóa vùng, miền; chú trọng phát huy vai trò, giá trị đặc trưng của các đô thị động lực phát triển kinh tế quốc gia và cấp vùng, đô thị di sản, đô thị sinh thái, đô thị du lịch, đô thị khoa học; áp dụng công nghệ hiện đại để xây dựng đô thị văn minh, sinh thái…

3. Kết luận

Một số kinh nghiệm vận dụng những nội dung mới, cốt lõi trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào giảng dạy bài CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức góp phần nâng cao chất lượng giảng dạyphần học Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Đồng thời cập nhật, bổ sung đầy đủ cho học viên có sự hiểu biết tích cực và tin tưởng vào con đường đổi mới, phát triển đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo nhất là đường lối về CNH, HĐH đất nước. Từ đó, học viên tích cực hành động thiết thực trong rèn luyện, học tập và góp phần bảo vệ, thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách kinh tế do Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra.

 

Tài liệu tham khảo

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[2] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình trung cấp lý luận chính trị: Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam (2021), Nxb LLCT, Hà Nội.

[3] Hội đồng Lí luận Trung ương (2021), Những điểm mới trong các ĐH XIIIcủa Đảng, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[4] Nguyễn Viết Thông, (2021), Những nội dung cốt lõi, những vấn đề mới trong các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Hà Nội.