Nâng cao văn hóa công vụ - Giải pháp căn cơ để hạn chế tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm trong hoạt động công vụ
Tóm tắt: Văn hóa công
vụ trong điều kiện xây dựng một nền hành chính “phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả” là yếu tố giữ vai trò rất quan trọng để thực hiện các mục tiêu. Do vậy, việc nhận diện những biểu hiện trái với những
giá trị cốt lõi của văn hóa công vụ cần được quan tâm thực hiện để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần
nâng cao văn hóa công vụ trong điều kiện hiện nay. Từ khóa: văn hóa
công vụ, hoạt động công vụ, trách nhiệm 1. Đặt vấn đề Văn hóa công vụ được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau
nhưng dưới góc độ chính trị - pháp lý, văn hóa công vụ phải là tập hợp những
giá trị, chuẩn mực và phải được thể hiện qua hành vi, cách ứng xử của chủ thể thực
thi công vụ. Chủ
thể thực thi công vụ là những chủ thể được quyền nhân danh và sử dụng quyền lực
nhà nước để hoàn thành nhiệm vụ được giao và khi quyền lực được sử dụng trong
công vụ không theo một hệ chuẩn mực văn hóa nhất định thì cũng có nghĩa là
những chủ thể đó đã tha hóa quyền lực. Việc xử lý những chủ thể đã bị tha hóa
bởi quyền lực là điều cần thiết nhưng đôi khi những hậu quả tai hại mà họ gây
ra khó có thể khắc phục nhanh và hoàn toàn nên việc ngăn chặn sự tha hóa này
cần dựa trên nền tảng văn hóa công vụ, văn hóa sử dụng quyền lực để phụng sự
lợi ích chung. 2. Nội dung 2.1. Những giá trị cốt lõi của văn hóa công vụ Với định hướng xây dựng một chế độ xã hội vì mục tiêu con
người, phục vụ con người nền công vụ nước ta hướng đến mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trên cơ sở “xây
dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả” [1; tr.286] với “đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo, phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, phục vụ người dân, doanh nghiệp” [1; tr.224]. Do vậy, có thể xác định những
giá trị cốt lõi của văn hóa công vụ nhất định phải đảm bảo các nội dung cơ bản
sau: (i) Tính chuyên nghiệp: Đây là một nội dung rất quan trọng của văn hóa công vụ và
đòi hỏi chủ thể thực thi công vụ phải có kiến thức, kỹ năng, có ý thức, thái độ
đúng đắn, rõ ràng về sứ mệnh, trách nhiệm phụng sự của mình. Tính chuyên nghiệp
trong công vụ thể hiện ở năng lực làm tốt những việc thuộc chức trách được
giao, có sự chuẩn mực trong ứng xử với công việc và với con người - đặc biệt là
người dân. Trong mối quan hệ với đối tượng phục vụ, sự sốt sắng, không nề hà
khó khăn, không né tránh đùn đẩy công việc, tận tình hướng dẫn hoặc giải quyết
nhanh chóng những nhu cầu bức thiết của người dân, doanh nghiệp …; trong quan
hệ công vụ nội bộ việc sẵn sàng nhận nhiệm vụ thuộc chức trách được giao, thể
hiện rõ chính kiến, bản lĩnh trong tham mưu, đề xuất vì lợi ích chung là những
biểu hiện rõ nét của tính chuyên nghiệp. (ii) Tính trách nhiệm Dưới góc độ văn hóa công vụ, tính trách nhiệm được xây dựng
trên cơ sở ý thức tự giác của chủ thể thực thi công vụ. Đây chính là nền tảng
vững chắc để xây dựng văn hóa trách nhiệm trong nền công vụ vì nó thấm nhuần
trong mỗi nhận thức, tư duy và hành vi công vụ của chủ thể, có trách nhiệm và
dám nhận trách nhiệm trong thi hành công vụ. Ở một khía cạnh khác, tính trách
nhiệm trong văn hóa công vụ còn được thể hiện ở bản lĩnh dám chịu trách nhiệm với công việc, với bản thân mình,
lời nói đi đôi với việc làm. (iii) Tính trung thực, khách quan Sự trung thực trong thực thi công vụ sẽ là nền tảng tốt
cho sự liêm chính vì người trung thực là người có bản lĩnh, có lòng tự trọng
cao thì họ cũng có bản lĩnh để đề kháng với những cám dỗ, danh lợi, tiền tài,
quyền lực và cảm thấy áy náy, xấu hổ khi tạo ra những kết quả công vụ không như
mong muốn… Tính khách quan, công tâm trong hoạt động công vụ phải được thể hiện
qua sự vô tư, trong sáng, bất vụ lợi khi giải quyết những vấn đề khó khăn của
người dân, doanh nghiệp, không lợi dụng những khoảng trống pháp lý hay những
quy định còn mập mờ, mâu thuẫn, khó hiểu để trục lợi khi thực thi công vụ. (iv) Tính minh bạch Hoạt động công vụ sử dụng nguồn lực công như tài chính,
nhân sự, quyền lực … để hoàn thành các nhiệm vụ chung. Do vậy, văn hóa công vụ
đòi hỏi tính minh bạch không chỉ ở quy định mà còn ở cách thức, mục đích, chế
độ, đối tượng, thủ tục sử dụng các nguồn lực này, việc công khai và giải trình
về những vấn đề công vụ mà nhân dân, cấp trên đặt ra. Mặt khác, tính minh bạch
còn phải là một nội dung bắt buộc trong trách nhiệm công vụ của các cán bộ,
công chức nhà nước. Thiếu sự minh bạch, công khai sẽ là điều kiện thuận lợi để
sự chuyên quyền, nhũng nhiễu, tham nhũng phát sinh một cách khó kiểm soát. (v) Tính hiệu quả, hiệu lực Công vụ nhà nước sẽ không thiết thực, sẽ không có tính
văn hóa khi không hướng đến sự hiệu quả, hiệu lực. Bởi lẽ chỉ khi tạo ra được
những sản phẩm công vụ có giá trị với một chi phí bỏ ra thấp nhất, tạo ra được
trạng thái trật tự bền vững trên cơ sở các quy tắc bắt buộc được thực thi đầy
đủ, đúng đắn thì người dân, doanh nghiệp, địa phương, đất nước mới hưởng được
thành quả thực chất của nền công vụ. Các nguồn lực được sử dụng hợp lý, hiệu
quả trong hoạt động công vụ cũng là điều kiện để nuôi dưỡng sức dân vì xét cho
cùng các nguồn lực này cũng là sự chung tay đóng góp từ mồ hôi, công sức của
các tầng lớp nhân dân lao động. (vi) Tính phục vụ Với bản chất dân chủ, nền công vụ nhà nước phải phục vụ
tốt nhất cho lợi ích chung, lợi ích của nhân dân được thể hiện qua cung cách
phục vụ, giao tiếp ứng xử công vụ chuẩn mực hướng đến mục tiêu chung của mỗi
cán bộ, công chức khi thi hành công vụ. 2.2. Nhận diện những biểu hiện đi ngược với văn hóa công
vụ Ngoài những cán bộ, công chức, viên chức hết lòng, tận
tụy với công việc, thể hiện tính trách nhiệm trong công vụ được giao thì vẫn có
một bộ phận cán bộ, công chức đang đi ngược lại với những giá trị cốt lõi của
văn hóa công vụ. Do vậy, việc nhận diện đầy đủ những biểu hiện này để tìm ra
nguyên nhân và giải pháp chính xác là điều kiện quan trọng để xây dựng nền hành
chính quốc gia hiện đại, chuyên nghiệp, dân chủ, hiệu lực, hiệu quả. Thứ nhất: sợ sai, sợ trách nhiệm Đây là một hiện tượng đáng lo ngại trong một bộ phận cán
bộ, công chức hiện nay và đã được nhiều lần đề cập trong các hội nghị, diễn
đàn. Với tâm lý sợ sai nên nếu không làm gì thì sẽ không sai gì cả và vẫn giữ
được sự “long lanh”, trọn vẹn của bản thân trước mắt những người xung quanh
nhất là trước cấp trên và nếu không sai thì cũng không phải chịu trách nhiệm gì
cả. Những cán bộ này không phát huy được giá trị của bản thân cũng không đóng
góp gì cho tổ chức, việc “không nói, không tham mưu, không làm” tưởng rằng
không gây hại nhưng thực chất lại làm chậm trễ, đình trệ hoạt động công vụ,
những nhu cầu bức xúc không được giải quyết kịp thời khiến cho người dân, doanh
nghiệp nản lòng, búc xúc… Xét cho cùng, mỗi cán bộ, công chức khi ở một cương
vị, vị trí công vụ nào đều hưởng lương từ ngân sách nhà nước có được từ sự đóng
góp của người dân nên phải có trách nhiệm, bổn phận tương ứng với vị trí công
vụ của mình để phục vụ nhân dân. Những hành vi sợ sai, sợ trách nhiệm nên không
làm gì của một số cán bộ, công chức thực chất chính là hành vi vi phạm pháp
luật. Thứ hai: né tránh, đùn đẩy trách nhiệm Hiện tượng này là hệ quả tất yếu của việc sợ sai, sợ
trách nhiệm nên thiếu chủ động trong tham
mưu hoặc tham mưu lòng vòng, không nêu rõ quan điểm hoặc “đẩy việc lên cơ quan cấp trên
hoặc sang các bộ, cơ quan khác, thiếu sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời, hiệu quả
giữa các bộ, cơ quan, địa phương…”. Điều này
làm cho “quá trình xử lý công việc bị kéo dài, gây cản trở và làm giảm hiệu
lực, hiệu quả của công tác chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp; cá biệt
có nơi rất trì trệ, làm suy giảm niềm tin của người dân và doanh nghiệp đối với
cơ quan nhà nước, ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế
- xã hội đã đề ra” [3]. Nguyên nhân chủ quan của tình trạng
này là do một bộ phận cán bộ, công chức còn hạn chế về nhận thức, ý thức, trách
nhiệm chấp hành pháp luật, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ… Bên cạnh đó còn có
một bộ phận cán bộ, công chức sợ bị “vi phạm pháp luật” nên “thà đứng trước hội
đồng kỷ luật hơn là đứng trước vành móng ngựa” và đối với nhóm cán bộ, công
chức này thì ngoài nguyên nhân chủ quan nêu trên còn có nguyên nhân từ chính
các quy định pháp luật hiện hành như quy định pháp luật về cùng một vấn đề còn
chồng chéo, mâu thuẫn hay chưa rõ ràng, cụ thể, cùng một nội dung nhưng có hai
cách hiểu khác nhau. Thứ ba: nhũng nhiễu, hạch sách, phục vụ kém Cán bộ, công chức khi thực hiện nhiệm vụ theo thẩm quyền,
chức trách được giao để giải quyết các công việc, thủ tục cho người dân một
cách vụ lợi thông qua hành vi gây khó dễ hoặc lợi dụng việc thiếu thông tin để
“tung hỏa mù” hoặc lợi dụng các quy định chưa rõ ràng, cụ thể để làm khó hoặc
dọa dẫm … khiến cho người dân, doanh nghiệp buộc phải “chung chi”, “phong bao”
cho xong việc của mình. Và nếu công vụ được thực hiện theo cung cách này thì
khó có thể nói là phục vụ tốt được. Theo Báo cáo Chỉ số Năng
lực cạnh tranh cấp tỉnh 2022 (PCI) do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam (VCCI) công bố thì có
71,7% số doanh nghiệp được hỏi thừa nhận tình
trạng nhũng nhiễu của cán bộ, công chức, viên chức khi
giải quyết các thủ tục là phổ biến, có 54,54% số doanh nghiệp trả chi phí không
chính thức cho cán bộ thuế [2; tr.
70-73] và cả hai chỉ số này đều tăng lần lượt là 14,3%, 20,74% so với năm 2021.
Điều này gây ra hệ lụy là doanh nghiệp phải tìm cách hợp thức hóa bằng hóa đơn
khống cho các chi phí này mà đây lại là hành vi phạm pháp, doanh nghiệp thiệt
đơn, thiệt kép nên không chỉ không tin vào những nỗ lực cải cách của Chính phủ mà
còn phá hoại tính lành mạnh của môi trường đầu tư kinh doanh của đất nước. Thứ tư: lợi dụng quyền lực công để vụ lợi, tham nhũng Quyền lực nhà nước trao cho cán bộ, công chức là để thực
thi công vụ vì lợi ích chung nhưng vẫn có một bộ phận cán bộ, công chức tự cho
mình những đặc quyền, đặc lợi từ nguồn lực công này để tư lợi, tham nhũng.
Những cán bộ, công chức này thường không quan tâm đến lợi ích chung của tập
thể, của địa phương, đất nước mà chỉ quan tâm lợi ích của bản thân, gia đình,
thân hữu của mình, họ thường có thái độ thờ ơ, vô cảm với những khó khăn, bức
xúc của người dân, doanh nghiệp thậm chí họ lợi dụng tình hình khó khăn, cấp
thiết để thể hiện quyền lực, để tham nhũng như những bị cáo trong vụ án “chuyến
bay giải cứu” công dân ở những nơi dịch Covid-19 hoành hành thời gian qua.
Những hành vi này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn trái với lương tâm, đạo
đức và làm băng hoại những giá trị văn hóa công vụ mà nhân dân mong mỏi, kỳ
vọng. Trên đây chỉ là một số những biểu hiện của những hành vi
đi ngược lại với các giá trị cốt lõi của văn hóa công vụ trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Những biểu hiện
không có văn hóa trong hoạt động công vụ cần được nhận diện đầy đủ, sâu sắc hơn
để có những giải pháp căn cơ, phù hợp để ngăn chặn, hạn chế hiệu quả. 2.3.Một số giải pháp góp phần nâng cao văn hóa công vụ Thứ nhất, cần
tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục văn hóa công vụ theo từng lĩnh vực ngành,
nghề cho cán bộ, công chức và điều đó có nghĩa là biến những quy chế ứng xử
công vụ phải trở thành hành vi trên thực tế của mỗi cán bộ, công chức khi thi
hành công vụ. Thứ hai, cần
có cơ chế tuyển dụng phù hợp để tuyển chọn được những cán bộ, công chức có
những tố chất, phẩm cách phù hợp với lĩnh vực ngành, nghề mà họ đăng kí. Theo
quy định hiện nay thì việc tuyển dụng mới chỉ dừng lại việc tuyển chọn nhân sự dựa
vào kiến thức, kỹ năng còn việc lựa chọn nhân sự về tâm đức thì chưa có vì việc
đánh giá ban đầu chỉ có thể thực hiện thông qua những tình huống đạo đức trong
công vụ cần được lồng ghép một cách khéo léo, tinh tế để ứng viên bộc lộ được
thái độ, tâm thế của mình khi xử lý. Thứ ba, cần
thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, định hướng về lý tưởng phục vụ cho đội
ngũ cán bộ, công chức để họ thấy rõ hơn về sứ mệnh, về vinh dự của bản thân khi
đứng trong hàng ngũ công quyền, thay mặt nhà nước để phụng sự nhân dân, phụng
sự xã hội. Thứ tư, cần
tiếp tục cải thiện chế độ đãi ngộ tương xứng với cường độ, công sức lao động
cho đội ngũ cán bộ, công chức. Khi họ không còn bị chi phối quá nhiều về vấn đề
“cơm áo, gạo tiền” thì họ sẽ chuyên tâm công tác và không cần phải nghĩ cách
nhũng nhiễu, lạm dụng chức vụ, quyền hạn để tư lợi nữa. Đồng thời cần có cơ chế
phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh những cán bộ, công chức vi phạm văn
hóa công vụ. 3. Kết luận Văn hóa công vụ là nền tảng để tạo nên sức mạnh, là vũ
khí nội tại để phòng, chống những hiện tượng lệch lạc trong hoạt động công vụ.
Xây dựng thành công văn hóa công vụ cần phải xây dựng hệ giá trị cốt lõi văn
hóa trong các hoạt động công vụ đồng thời phải nhận diện đầy đủ, kịp thời những
biểu hiện đi ngược lại văn hóa công vụ để có biện pháp đấu tranh, xử lý phù
hợp. Có như vậy mới có thể xây dựng thành công “nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ,
pháp quyền, chuyên
nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo
đảm công
khai, minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu
quả” đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập
của đất nước trong tình hình mới./. Tài liệu
tham khảo: 1.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII - Tập 1,
NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. 2. Liên đoàn Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI), Báo
cáo Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 2022 (PCI). 3.
Thủ tướng Chính phủ, Công điện 280/CĐ-TTg
về việc Chấn chỉnh, tăng cường trách nhiệm trong xử lý công
việc của các bộ, cơ quan, địa phương, ngày 19/4/2023. 4. Thông tấn xã
Việt Nam (2023), “Tìm thuốc chữa
bệnh” sợ sai, sợ trách nhiệm, từ <https://tuyengiao.vn/thoi-su/tim-thuoc-chua-benh-so-sai-so-trach-nhiem-144876> ThS. Nguyễn Thị Nụ - Trưởng |