Kiểm soát quyền lực và vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức trong giai đoạn hiện nay
Tóm tắt: Kiểm soát quyền lực trong điều kiện hệ thống chính trị chỉ có duy nhất Đảng
Cộng sản cầm quyền không chỉ là vấn đề có tính kỹ thuật mà còn là yêu cầu tất
yếu và có ý nghĩa chính trị to lớn, liên quan đến sự vững mạnh, vị thế của
Đảng. Kiểm soát tốt quyền lực còn là điều kiện để xây dựng Đảng vững mạnh về
đạo đức, hướng đến các giá trị văn minh, chân chính của dân tộc và nhân loại. Bài
viết thể hiện nhận thức cá nhân về vấn đề kiểm soát quyền lực và xây dựng Đảng
về đạo đức hiện nay trên cơ sở đó đối chiếu với thực tiễn và đề xuất một số
giải pháp nhằm góp phần kiểm soát quyền lực tốt hơn từ đó củng cố nền tảng đạo
đức của Đảng trong điều kiện hiện nay. Từ khóa: kiểm soát quyền lực, xây dựng Đảng,
đạo đức. 1. Đặt vấn đề Quyền lực chính trị là vấn đề cốt yếu và
không thể thiếu để tạo lập, duy trì trật tự trong toàn hệ thống chính trị và cả
xã hội nên việc sử dụng quyền lực một cách có kiểm soát để phục vụ cho lợi ích
chung có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước. Điều
này chỉ có thể thực hiện thành công khi mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao và rèn
luyện tốt đạo đức cách mạng vì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từngkhẳng định: “Người cách mạng phải có đạo đức
cách mạng làm nền tảng … không
có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [7; tr. 622; 601]. Chính vì
vậy, sự suy thoái về đạo đức của cán bộ, đảng viên sẽ bào mòn niềm tin cuả Nhân
dân vào Đảng, nếu không ngăn chặn, phòng ngừa tốt sự suy thoái này sẽ làm cho Đảng
đánh mất vai trò lãnh đạo và sứ mệnh lịch sử
cao cả của mình.Và
kiểm soát tốt quyền lực trao cho cán bộ, đảng viên trên cương vị công tác của
mình là một trong những giải pháp căn cơ, cốt yếu để cán bộ, đảng viên nâng cao
sức đề kháng, không rơi vào hiện tượng suy thoái về đạo đức trong các hoạt động
công vụ được giao. 2. Nội dung 2.1. Một số nhận thức về vấn đề kiểm
soát quyền lực với nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức Kiểm soát quyền lực trong hệ thống
chính trị các cấp có mục đích rất cụ thể: đảm bảo cho quyền lực giao cho người có
thẩm quyền được sử dụng cho đúng người, đúng việc, đúng mục đích; ngăn ngừa sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" của người được trao quyền. Đảng Cộng sản Việt Nam là
chính Đảng vừa với tư cách là đảng lãnh đạo, vừa là đảng cầm quyền - Đảng lãnh
đạo Nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên ưu tú được giao trách nhiệm
đảm nhận những cương vị công tác trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính
trị các cấp. Cho nên kiểm soát quyền lực trong hệ thống chính trị chính là việc
kiểm soát cách thức sử dụng, quy trình sử dụng và mục đích sử dụng quyền lực
của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống. Việc kiểm soát quyền lực đã được quan tâm từ
rất sớm trong quá trình hình thành và phát triển của Đảng Cộng sản thông qua
công tác tự phê bình, phê bình và công tác kiểm tra, giám sát. Công tác tự phê bình và phê bình là cơ chế tự
soi, tự sửa trong nội bộ đội ngũ cán bộ, đảng viên để thấy được những sai lầm,
khuyết điểm để khắc phục, sửa chữa. Việc thẳng thắn, nhìn nhận khuyết điểm sai
lầmcũng là những bài học để Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên hoàn thiện nếu quyết
tâm sửa chữa vì V.I. Lênin đã từng chỉ rõ: “Tất cả những đảng cách mạng
đã bị tiêu vong cho đến nay, đều bị tiêu vong vì tự cao tự đại, vì không biết
nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình, và vì sợ sệt không dám nói lên những
nhược điểm của mình. Còn chúng ta, chúng ta sẽ không bị tiêu vong, vì chúng ta
không sợ nói lên những nhược điểm của chúng ta, và những nhược điểm đó, chúng
ta sẽ học được cách khắc phục” [8; tr.141] Nhờ nghiêm túc tự phê bình và phê bình, Đảng ta đã nhận thấy được những khuyết
điểm sai lầm trong việc ban hành các chủ trương, đường lối xây dựng và phát
triển đất nước trên một số lĩnh vực để kịp thời sửa đổi nhằm làm cho mỗi đường lối chính trịđều hướng đến mục tiêu chính trị tốt đẹp, nhân văn vì con người, phục vụ cho lợi ích của Nhân dân
do “Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có
lợi ích nào khác”[6; tr.210].Quá trình nghiên cứu cẩn trọng, thảo luận đa chiều, sâu sát để có được các chủ trương, đường lối xuất
phát từ thực tiễn cuộc sống, đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của
Nhân dân, mục tiêu vì Nhân dân chính là tính nhân văn, đạo đức của Đảng. Do đó việc kiểm soát quyền lực của
những cán bộ, đảng viên có thẩm quyền ngay từ khâu đề xuất, tham mưu ban hành
chủ trương, đường lối là điều rất quan trọng để tránh việc cài cắm lợi ích nhóm
mà làm phương hại đến lợi ích chung. Bên cạnh đó cũng cần đặc biệt chú trọng
đến việc kiểm soát quyền lực trong quá trình triển khai thực hiện trên thực tế
vì nội dung chủ trương, đường lối dù có nhân văn, đúng đắn, phù hợp đến đâu mà
việc thực hiện bị méo mó, bị lợi dụng bởi những cán bộ, đảng viên tha hóa, biến
chất thì chủ trương, đường lối cũng chỉ là những tuyên ngôn mà thôi. Kiểm soát quyền lực thông qua cơ chế
kiểm tra, giám sát trong hệ thống chính trị chính là hoạt động làm cho mọi chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước được ban hành một
cách khoa học, kịp thời và được thực hiện đúng đắn, đầy đủ trên thực tế để đạt
mục tiêu chung. Do vậy, công tác kiểm tra, giám sát cần phải được thực hiện
thường xuyên duy trì đối với mọi hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong hệ
thống chính trị vì “Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực
lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới
sửa chữa và giúp đỡ kịp thời” [5; tr. 336] và “Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết,… kiểm tra
khéo, về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”[5; tr. 327]. Qua kiểm tra, giám sát có thể đánh giá được tác động thực tiễn của chủ
trương, đường lối, chính sách có đáp ứng với mục tiêu đề ra hay không, có thiết
thực với yêu cầu cuộc sống hay không để rút kinh nghiệm trong việc điều chỉnh,
bổ sung sau này đồng thời hạn chế tính quan liêu, xa rời thực tiễn trong công
tác lãnh đạo, điều hành của cán bộ, cơ quan có thẩm quyền. Công tác kiểm tra, giám sát còn có
thể giúp cán bộ lãnh đạo, quản lý, cơ quan có thẩm quyền có thêm kênh thông tin
thực tế để đánh giá cán bộ xem họ có thể hiện được vai trò trách nhiệm với công
việc được giao, có tiên phong gương mẫu trong chấp hành chủ trương, đường lối,
chính sách, trong đạo đức lối sống hay không, có rơi vào các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” hay không? Đồng thời, để công tác kiểm tra,
giám sát thực sự phát huy ý nghĩa, hiệu quả trong kiểm soát quyền lực thì cần
phải gắn với kỷ luật Đảng và trách nhiệm pháp lý đối với những cán bộ, đảng viên,
tổ chức trong hệ thống chính trị thiếu tu dưỡng, rèn luyện, năng lực lãnh đạo,
tính chiến đấu yếu kém làm cho việc ban hành, triển khai các chủ trương, đường
lối, chính sách pháp luật không đạt mục đích, yêu cầu đề ra, vi phạm những điều
đảng viên, cán bộ, công chức không được làm. Qua đó chúng ta có thể loại bỏ
những cán bộ, đảng viên không còn xứng đáng đứng trong hàng ngũ hoặc có thể
giúp cho họ nhận thấy sai lầm, khuyết điểm và hỗ trợ họ sửa chữa để có cơ hội
trở lại tiếp tục chiến đấu, phụng sự nhân dân. Điều này cũng có nghĩa là xây
dựng Đảng về đạo đức. Như vậy:Xây dựng Đảng về đạo đức là làm cho việc hình thành, rèn luyện và
nâng cao đạo đức cách mạng của Đảng ngày càng đáp ứng sự mong mỏi, kỳ vọng của
Nhân dân và việc rèn luyện, giữ gìn phẩm cách đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên
là điều kiện quan trọng để góp phần tạo thành sức mạnh của Đảng. Trong hệ thống
chính trị các cấp đều có những cán bộ, đảng viên ưu tú nắm các vị trí công tác
với những trọng trách nhất định, tuy nhiên, không phải cán bộ, đảng viên nào
cũng có thể có sự đề kháng tốt trước sự cám dỗ của quyền lực, danh vọng, lợi
ích nên cần có những biện pháp để kiểm soát quyền lực nhằm hạn chế sự sa ngã,
lầm đường, tự suy thoái, tự diễn biến trong cán bộ, đảng viên. 2.2. Một số vấn đề thực tiễn trong
kiểm soát quyền lực nhằm đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng về đạo đức hiện nay Sau hơn 35 năm đổi mới, đất nước
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã gặt hái được những thành tựu to lớn và có được chỗ
đứng vững vàng trong các quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, sự mở rộng giao lưu, hội
nhập trên các lĩnh vực cùng với sự phát triển kinh tế thị trường đã làm cho một
bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, bản lĩnh không vững vàng
nên đã có những tư tưởng, hành động lệch lạc, thậm chí đi ngược lại với lý
tưởng, sứ mệnh cao cả của Đảng. Nhận thức được nguy cơ tiêu cực này, Đảng và
Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế để kiểm soát quyền lực nhằm ngăn chặn đẩy lùi
sự tha hóa quyền lực, phòng chống sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" của đảng viên từ không
giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý đến đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý các
cấp. Thứ nhất, về công
tác xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực hiện nay Trong thời gian gần
đây, việc tiếp tục khẳng định chủ trương kiểm soát quyền lực trong hệ thống
chính trị được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa
XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ”, ngày 30/10/2016 đã xác định “các cấp ủy, tổ chức Đảng chỉ đạo rà
soát, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc
thực thi quyền lực của người có chức, có quyền, theo hướng quyền hạn đến đâu
trách nhiệm đến đó; phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm tập thể, cá nhân
trong từng công đoạn giải quyết công việc và có chế tài xử lý nghiêm những hành
vi vi phạm”[1].
Đồng thời Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII cũng chỉ rõ 27 biểu
hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tại Hội nghị Trung ương 4, Ban chấp hành Trung ương khóa XIII đã ban
hành Kết luận số 21-KL/TW về đẩy
mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy
lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống,
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,trong đó đã mở rộng trongxây dựng hệ thống chính
trị chứ không
chỉ dừng ở phạm vixây dựng, chỉnh đốn
Đảng. Đồng
thời khẳng định chủ trương kết hợp
chặt chẽ, hài hòa giữa xây và chống, xây là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, chống là
nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên. Về vấn đề kiểm
soát quyền lực, Kết luận 21-KL/TW đã xác định rõ nhiệm vụ “Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực
trong các lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực, hoạt động dễ phát sinh tham
nhũng, tiêu cực, như: Công tác cán bộ, tài chính, ngân
sách, tài sản công, đất đai, tài nguyên, thanh
tra, kiểm toán, kiểm tra, hải quan, điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án,...”[2]. Trên cơ sở đó,
Ban chấp hành Trung ương khóa XIII đã ban
hành Quy
định số 114-QĐ/TWngày
11/7/2023 về kiểm soát quyền lực và phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ [4]. Mặt khác, Ban chấp hành Trung ương khóa XIII cũng đã
ban hành Quy
định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 về những điều đảng viên không được làm với
những nội dung quy định rõ ràng, cụ thể và mở rộng hơn [3]. Mặc dù, vẫn còn phải tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực hơn nữa nhưng với những văn kiện
chính trị đã đề cập cho thấy tầm nhìn sâu sắc về những nguy cơ chính trị trong
nội bộ, sự quyết tâm chỉnh đốn, khắc phục những vấn đề còn hạn chế, tồn đọng
trong năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đã tạo ra bước phát triển mới của Đảng về trí
tuệ, bản lĩnh chính trị, thực sự là đạo đức, là văn minh để đáp ứng yêu cầu
bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước và phụng sự Nhân dân. Thứ hai, việc kiểm
soát quyền lực trong thực tế đã đạt nhiều kết quả quan trọng góp phần củng cố
lại niềm tin của Nhân dân vào sự quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong cuộc chiến
chống tham nhũng, tiêu cực cũng như đập tan luận điệu xuyên tạc của các thế lực
thù địch về vấn đề này. Trong hai năm trở
lại đây (sau khi đã kiểm soát được dịch Covid-19) việc phát hiện xử lý các vụ
việc tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được triển khai quyết liệt. Năm 2022, các cơ quan tố tụng cả nước đã khởi tố, điều
tra 2.474 vụ với 4.646 bị can, truy tố 2.157 vụ với 4.564 bị can, xét xử sơ thẩm 2.198
vụ/4.620 bị cáo về các tội tham nhũng, kinh tế, chức vụ trong đó có 108 vụ việc tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng, phức
tạp thuộc
diện Ban Chỉ đạo trung ương tập trung chỉ đạo. Việc xử lý nhiều bị can là cán bộ cấp cao, cả
đương chức và nghỉ hưu (có cả 15 cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý) được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan
nghênh, đồng tỉnh, ủng hộ, đánh giá. Ở cấp địa phươngtrong 10 tháng đầu năm 2022đã khởi tố mới 382 vụ án tham
nhũng gấp 1,5 lần so với cùng kỳ năm trước [11]. Trong năm 2023, các cơ quan tiến hành tố tụng cả nước đã khởi tố, điều
tra 1.103 vụ/2.951 bị can về các tội tham nhũng, chức vụ, kinh tế; khởi tố mới 732
vụ án/2.106 bịcan trong đó đã kết luận điều tra, đề nghị truy tố 499 vụ
án/1.205 bị can, Tòa án nhân dân các cấp giải quyết theo thủ tục sơ thẩm 747
vụ/1.800 bị cáo; đã giải quyết 699 vụ/1.800 bị cáo. Có 260 vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu
cựcdo Ban chỉ đạo Trung
ương theo dõi, chỉ đạo. Đây là các vụ án mang tính hệ thống như vụ án xảy ra tại Cục Đăng kiểm Việt Nam và các trung tâm
đăng kiểm một số địa phương; Công ty cổ phần Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, Tập đoàn FLC, một số vụ án xảy ra từ
việc lợi dụng điều kiện dịch Covid -19 căng thẳng để trục lợi như vụ án xảy ra
ở Công ty Việt Á và các đơn vị, địa phương
liên quan, Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao và một số đơn vị liên quan... [9] Trong 06 tháng đầu năm 2024, các cơ
quan tố tụng cũng đã khởi tố mới và điều tra các tội tham nhũng, kinh tế, chức
vụ 2.836 vụ với 5.975 bị can, trong đó các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban chỉ đạo
trung ương theo dõi đã đưa ra xét xử sơ thẩm là 8 vụ án với 212 bị cáo. Đồng
thời, công tác đấu tranh, phòng chống tham nhũng, tiêu cực cũng được đẩy mạnh
quyết liệt hơn trong toàn hệ thống chính trị các cấp, tình trạng “trên nóng
dưới lạnh” đã có sự chuyển biến mạnh mẽ hơn khi các cơ quan chức năng của địa
phương trong cả nước cũng đã khởi tố mới 444 vụ án với 1.033 bị can. [10] Việc xử lý những cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, vi phạm
quy định về những điều đảng viên không được làm trong các vụ việc vừa qua là
không có vùng cấm, ngoại lệ kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý đương chức hay về
hưu khi phát hiện vi phạm cũng đều bị xử lý cho thấy tình trạng "nhẹ trên, nặng dưới", "hạ cánh an
toàn" không còn. Đây
là điều cảnh tỉnh mạnh mẽ cho tất cả những ai đang xem quyền lực, chức vụ được
giao là tài sản riêng của mình để tùy tiện sử dụng nhằm trục lợi hay thể hiện
quyền lực làm ảnh hưởng đến uy tín, thanh danh của Đảng hay làm phương hại đến
lợi ích chính đáng của người dân, doanh nghiệp, lợi ích chung của tập thể, xã
hội phải dè chừng, cân nhắc trước khi có ý định bỏ qua kỷ cương, phép nước. 2.3. Một số đề xuất Để công tác kiểm soát quyền lực phát huy được
tốt vai trò, tác dụng nhằm góp phần xây dựng Đảng về đạo đức, thiết nghĩ cần: Tiếp tục hoàn thiện cơ
chế kiểm soát quyền lực trong các lĩnh vực khác đã được xác định rõ trong Kết
luận số 21-KL/TW của Ban chấp hành trung ương khóa XIII. Tổ chức thực hiện tốt
các Quy định số 114-QĐ/TW ngày
11/7/2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực và phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ, Quy
định 131-QĐ/TW ngày 27/10/2023 về
kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra,
giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán,Quy
định 132-QĐ/TW ngày 27/10/2023 về
kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án, Quy
định 178-QĐ/TW ngày 27/6/2024 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật. Tăng cường hiệu quả công tác giáo dục về đạo
đức cho cán bộ, đảng viên nhất là người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc có
chức trách giải quyết các vấn đề nhạy cảm để họ có ý thức trách nhiệm trong sử
dụng quyền lực được giao để phục vụ nhân dân. Điều này có một ý nghĩa rất lớn
vì trong quá trình phát triển, Đảng và Nhà nước chưa thể hoàn thiện tất cả các
cơ chế, chính sách trên tất cả các lĩnh vực một cách đồng bộ, khoa học nhưng
nếu có tâm đức thì cán bộ, đảng viên có chức trách được giao sẽ không lợi dụng
hạn chế đó để trục lợi và họ “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm,
dám đổi mới sáng tạo…” để tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật
một cách hiệu quả nhất vì lợi ích chung. Tiếp tục thực hiện thực chất, hiệu quả công
tác tự phê bình và phê bình trong đội ngũ cán bộ, đảng viên trên tinh thần xây
dựng, giúp đỡ đồng chí mình hoàn thiện hơn với phương châm “giúp người cũng là
giúp mình”, thấy sai thì đấu tranh, thấy đúng phải bảo vệ để xây dựng nền tảng
đạo đức trong mỗi cá nhân cán bộ, đảng viên và góp phần thiết thực để xây dựng
nền tảng đạo đức của Đảng. Đẩy mạnh hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát,
phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời những cán bộ, đảng viên vi phạm pháp
luật, vi phạm đạo đức để phát huy kết quả của công tác đấu tranh phòng chống
tham nhũng, tiêu cực đã đạt được và răn đe, phòng ngừa bộ phận cán bộ, đảng
viên còn chưa nhận thức hết được chức trách, nhiệm vụ, chưa quan tâm đúng mức
đến việc rèn luyện phẩm cách đạo đức công vụ của mình trên cương vị công tác
được giao. 3. Kết luận Xây dựng Đảng về đạo đức cần có cả những giải
pháp xây và chống, kiểm soát quyền lực giao cho cán bộ, đảng viên trong hệ
thống chính trị các cấp để họ sử dụng đúng đắn quyền lực phục vụ lợi ích chung
là một trong những giải pháp đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Kiểm
soát tốt quyền lực trước hết sẽ khẳng định mạnh mẽ rằng: chế độ độc đảng ở Việt
Nam không đồng nghĩa với độc đoán, chuyên quyền mà thế lực thù địch đã xuyên
tạc. Kiểm soát tốt quyền lực còn là lằn ranh an toàn để bảo vệ cán bộ, đảng
viên, để họ không có cơ hội để vi phạm kỷ luật Đảng, kỷ cương quản lý Nhà nước
khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Thực hiện tốt được điều này cũng là phương
thức để bảo vệ và phát huy nền tảng đạo đức của Đảng, làm cho Đảng ta “là đạo
đức, là văn minh”, xứng đáng với vị thế, vai trò lãnh đạo, cầm quyền mà Nhân
dân đã giao phó để xây dựng, phát triển đất nước ngày càng giàu mạnh, vững
bền./. Tài liệu
tham khảo: 1. Ban
chấp hành Trung ương khóa XII, Nghị quyết Trung ương 4 khóa
XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ”, ngày
30/10/2016 2. Ban
chấp hành Trung ương khóa XIII, Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống
chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy
thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”, ngày 25/10/2021. 3. Ban
chấp hành Trung ương khóa XIII,Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không
được làm, ngày 25/10/2021. 4. Ban
chấp hành Trung ương khóa XIII,Quy định số 114-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công
tác cán bộ, ngày 11/7/2023 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 5. 6. Hồ Chí
Minh: Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập13. 7.Hồ Chí
Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 15. 8. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006,
tập 45. 9. Thông
tấn xã Việt Nam (02/02/2024),Năm 2023 công tác phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh, tạihttps://infographics.vn/nam-2023-cong-tac-phong-chong-tham-nhung-tieu-cuc-tiep-tuc-duoc-day-manh-phan-2/210190.vna 10.Thông tấn
xã Việt Nam (15/8/2024),Kết
quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực 6 tháng đầu năm 2024, tạihttps://infographics.vn/ket-qua-cong-tac-phong-chong-tham-nhung-tieu-cuc-6-thang-dau-nam-2024/212320.vna |