Nghiên cứu khoa học - thực tế
Góp phần đấu tranh, phản bác luận điệu phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và tính thống nhất của quyền lực Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam


Tóm tắt:

Luận điệu đòi đa nguyên, đa đảng nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đòi tam quyền phân lập để đảm bảo “tính dân chủ” trong Nhà nước pháp quyền luôn là một trong những chiêu bài, thủ đoạn mà các thế lực thù địch hay sử dụng. Bài viết tập trung phân tích, vạch trần mong muốn đích thực của các thế lực thù địch khi chúng đưa ra các luận điệu này, qua đó góp thêm các luận cứ để phản bác luận điệu chống phá của chúng đối với công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta giai đoạn hiện nay.

Từ khóa:luận điệu, chống phá, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

1. Đặt vấn đề

Việc phủ nhận vai trò lãnh của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước, đối với xã hội và đảm bảo các giá trị dân chủ xã hội theo cách thức mà các thế lực chống phá, thù địch áp đặt để đạt mục tiêu cuối cùng của chúng là hướng nước ta đi theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay, chúng ta cũng cần đặc biệt cảnh giác với những thủ đoạn tuyên truyền như cần có đa nguyên đa đảng để đảm bảo tính chất dân chủ xã hội hay cần phải tam quyền phân lập thì mới có thể xây dựng được mô hình nhà nước pháp quyền. Do đó, chúng ta cần nhận diện đầy đủ các thủ đoạn tuyên truyền thâm độc này để có những luận cứ phản bác thuyết phục cả về lý luận lẫn thực tiễn.

2. Nội dung

2.1. Đấu tranh, phản bác luận điệu phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (NNPQXHCN)Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là công cụ quyền lực quan trọng để phát triển đất nước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa. Các quyết sách chính trị đúng đắn và vì hạnh phúc của Nhân dân, vì lợi ích của dân tộc cần được NNPQXHCN Việt Nam thể chế thành những quy định pháp luật cụ thể để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển vì dân, vì nước.

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các chính sách pháp luật thiếu đi tính phản biện xã hội của nó, các chính sách này không phải được ban hành một chiều từ ý chí chủ quan của các cơ quan nhà nước. Để một chính sách pháp luật được ban hành và công bố trên toàn xã hội thì phải thực hiện rất nhiều các quy trình thủ tục pháp lý chặt chẽ đã được quy định trong Hiến pháp, trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Kết quả thực hiện các chính sách pháp luật chính là những con số tăng trưởng về GDP, thu nhập bình quân đầu người, chỉ số phát triển con người liên tục tăng trong những năm qua. Đó là những “con số biết nói” và cũng là lời khẳng định mạnh mẽ về tầm nhìn, trí tuệ, năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tính đúng đắn, khoa học của các quyết sách mà Đảng đề ra. Điều đó cũng có nghĩa là không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với NNPQXHCN.

Do vậy, những luận điệu đòi đa nguyên, đa đảng để đảm bảo tính dân chủ của Nhà nước trở nên thừa thãi, lạc lõng của những “nhà tư tưởng” bị dắt mũi bởi các thế lực thù địch, bảo thủ, đố kị với sự tin tưởng, tín nhiệm của Nhân dân đối với Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với đó là sự nhận thức phiến diện khiến họ không phân biệt được giá trị dân chủ với phương thức đạt được các giá trị dân chủ, họ đồng nhất đa nguyên, đa đảng với dân chủ, rằng đa nguyên, đa đảng mới tự do.

Tại các nước theo chế độ đa nguyên, dù có nhiều đảng nhưng đảng phái cầm quyền chỉ là một số nhỏ trong số đó và thay phiên nhau cầm quyền. Đôi khi các đảng phái có đối lập, tranh giành ảnh hưởng với nhau trước công chúng nhưng khi không nhận đủ sự tín nhiệm hay ảnh hưởng đến lợi ích của đảng mình thì họ sẵn sàng bắt tay, thỏa hiệp, đôi khi sẵn sàng phản bội lại những lời hứa trước cử tri để có được quyền lợi mong muốn. Về hình thức có vẻ dân chủ nhưng xét về bản chất dân chủ chỉ nằm trong tay kẻ có tiền tài trợ cho các cuộc tranh cử và khi có chung lợi ích thì “đối lập, dân chủ”, “đa nguyên, đa đảng” chỉ là trò diễn trên sân khấu chính trị mà thôi. Đối với bên ngoài, họ cho rằng những giá trị dân chủ của họ là tuyệt vời nhất cho nhân loại và họ xuất khẩu các giá trị dân chủ bằng diễn biến hòa bình hay bằng vũ lực quân sự để áp đặt các giá trị dân chủ này. Kết quả của những hành động “khai sáng” này ở một số quốc gia Trung Đông, Bắc Phi chính là sự hỗn loạn về chính trị, xã hội, đẩy bao nhiêu người dân vô tội vào tình cảnh đau đớn, tang thương hay buộc phải rời bỏ quê hương để tránh chiến tranh, loạn lạc và không chắc họ có tìm lại được cảnh thanh bình, thống nhất đất nước như trước kia không ngay cả khi bỏ ra nhiều xương máu, thời gian, tiền bạc. [3]

Dân tộc Việt Nam đã từng trải qua những cuộc chiến tự vệ, chính nghĩa để giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và cũng thấm thía giá trị dân chủ thực sự như thế nào: đó chính là cuộc sống hòa bình, hạnh phúc, được học tập, làm việc  và có “Sữa cho em thơ, lụa để già”. Và dân tộc Việt Nam đã tìm thấy lực lượng lãnh đạo tốt nhất cho mình là Đảng Cộng sản Việt Nam vì đó là chính đảng có một nền tảng tư tưởng khoa học, tiến bộ, cách mạng nhất, nhân văn nhất để định hướng cho đường lối lãnh đạo của mình để đưa dân tộc đến phồn vinh, thịnh vượng, độc lập tự chủ. Đa nguyên, đa đảng có vẻ quá thừa thãi, mà nếu cố gượng ép đưa vào chắc chỉ là việc vô ích, không chính đáng, “vẽ rắn thêm chân”.

Việt Nam không phải không từng có đa nguyên, đa đảng nhưng lịch sử dân tộc đã có sự lựa chọn riêng cho mình và quyền tự quyết dân tộc đã được khẳng định trong Điều 3, Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc bản địa, 2007 của Liên Hợp quốc. Điều đó cũng có nghĩa là theo pháp luật quốc tế thì không một thế lực nào có đủ tư cách phán quyết hay bác bỏ hay ép buộc đối với sự lựa chọn đúng đắn của dân tộc Việt Nam. Và các “nhà tư tưởng” phản động không nên mắc sai lầm thêm một lần nữa là đồng nhất giữa quyền tự quyết dân tộc với quyền của dân tộc thiểu số. Bởi lẽ ở Việt Nam, quyền của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp không phân biệt dân tộc, thành phần, giới tính … đều có quyền bình đẳng như nhau, ngay cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài dù có quốc tịch khác cũng là một bộ phận không thể tách rời khỏi cộng đồng dân tộc Việt Nam và họ cũng có các quyền cơ bản khi về quê hương học tập, làm việc, du lịch … theo pháp luật Việt Nam. 

Do tất cả các lẽ trên, việc phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi đa nguyên đa đảng để mở rộng dân chủ trong NNPQXHCN hoàn toàn không đủ cơ sở khoa học, không thuyết phục cả về lý luận lẫn thực tiễn trong điều kiện ở Việt Nam.

2.2. Đấu tranh, phản bác luận điệu chống phá tính thống nhất của quyền lực nhà nước

Trong nhà nước pháp quyền nói chung có một giá trị phổ biến: quyền lực nhà nước phải được tổ chức khoa học, hiệu quả và có kiểm soát. Trên thế giới cũng có nhiều học thuyết về tổ chức quyền lực nhà nước khác nhau nhưng Nhà nước pháp quyền tư sản thiết lập cơ chế quyền lực của mình theo học thuyết “tam quyền phân lập” cho dù có hình thức chính thể nhà nước khác nhau (quân chủ lập hiến, cộng hòa đại nghị, cộng hòa tổng thống, cộng hòa hỗn hợp), nhưng không phải theo một khuôn mẫu thống nhất mà nó có những hiệu chỉnh nhất định để phù hợp với điều kiện ở từng quốc gia.

Học thuyết này được ra đời trên cơ sở nghiên cứu của hai nhà tư tưởng John Locke (1632-1704) và Charles de Secondat Montesquieu (1689- 1755) nhằm chống lại chuyên chế phong kiến, lạm quyền và vi phạm các quyền tự do, dân chủ mà giai cấp tư sản lúc bấy giờ đang cố gắng vùng vẫy thoát ra khỏi sự kìm kẹp lỗi thời của chế độ phong kiến. Nội dung cốt lõi của học thuyết là phân chia quyền lực nhà nước và trao mỗi nhánh quyền lực đó cho những cơ quan độc lập nhau, cân bằng và kiểm soát lẫn nhau để tránh lạm quyền khi đưa ra các quyết định quản lý xã hội. Tuy nhiên, không phải lúc nào cơ chế này cũng đem lại sự ổn định chính trị cho nhà nước, điển hình như Mỹ là quốc gia áp dụng triệt để cơ chế quyền lực này đã phải đóng cửa Chính phủ 21 lần do bất đồng giữa Nghị viện và Chính phủ về các thu chi ngân sách liên bang và gây ra những tác động không nhỏ đến đời sống chính trị cũng như hoạt động cung cấp các dịch vụ hành chính công cho công chúng [2]. Hay ở những quốc gia khác, sự độc lập cứng nhắc của các cơ quan nhà nước đôi khi cũng tạo ra những xáo trộn lớn như nghị viện có thể giải tán chính phủ, nguyên thủ quốc gia tuyên bố giải tán quốc hội để tiến hành bầu cử sớm, tòa án (hiến pháp) phế truất nguyên thủ quốc gia… [1]

Trong NNPQXHCN chúng ta đang xây dựng theo cơ chế quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước khi thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp và cơ chế này đã được khẳng định tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013.

Qua quá trình nghiên cứu, nhận thức về nhà nước pháp quyền đầy đủ hơn, chúng ta đã tiếp thu một hạt nhân hợp lý của học thuyết tam quyền phân lập đó chính là cơ chế “kiểm soát” quyền lực nhà nước để đảm bảo quyền lực nhà nước được thực hiện hiệu quả cũng như đảm bảo tính ổn định trong quá trình vận hành bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là từ trước đến nay bộ máy nhà nước chúng ta không có cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong các quy định của Hiến pháp và các đạo luật về tổ chức các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, việc kiểm soát quyền lực được thực hiện thông qua chức năng giám sát của cơ quan dân cử, chức năng thanh tra, kiểm tra của cơ quan hành chính và chức năng xét xử của cơ quan tòa án. Do vậy, việc ghi nhận cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 chỉ là nhằm pháp lý hóa cơ chế đã được thực hiện trên thực tế từ trước đó. Những cải cách và kiện toàn bộ máy nhà nước cả về tổ chức và hoạt động đã được chúng ta thực hiện từng bước thận trọng, không gây ra những xáo trộn đến mức hỗn loạn như những quốc gia khác và đã từng bước định hình các giá trị cốt lõi của NNPQXHCN, bổ sung những nội dung lý luận khoa học vào quá trình đổi mới hệ thống chính trị hiện nay.

Với những điều đã được thực tế kiểm chứng từ quá trình vận hành Nhà nước cho đến nay thì có cần đặt ra vấn đề phải áp dụng cơ chế tam quyền phân lập vào tổ chức nhà nước ở nước ta hiện nay như những gì mà các đối tượng “đấu tranh vì dân chủ” hay “yêu nước” kêu gọi không?Hay chúng chỉ muốn kích động, tạo hỗn loạn để thực hiện mưu đồ bất lương của mình: đẩy đất nước đi vào con đường mất ổn định, Nhân dân hoang mang và cuối cùng thì bị dẫn dắt bởi các thế lực muốn nô dịch dân tộc Việt Nam. Các thế lực này họ không nhận thức thấu đáo rằng quyền lực nhà nước cần phải thống nhất và phải thống nhất ở Nhân dân. Bản thân các quốc gia tư bản cũng xác định rằng quyền lực nhà nước của họ cũng từ Nhân dân nhưng khi giao cho lực lượng cầm quyền thì bị “chia năm xẻ bảy” bởi lẽ “Nhân dân” của họ không phải là một khối thống nhất mà bị chia rẽ bởi các nhóm lợi ích tư bản và nhóm nào có nhiều tiền thì có thể khuynh đảo được chính trị. Vậy liệu rằng đó phải là một “chuẩn mực tốt đẹp” cần thiết cho mọi quốc gia trên thế giới này không? Ở Việt Nam không thể tiếp nhận “tinh hoa” này được, lịch sử đất nước đã để lại những bài học xương máu khi quyền lực bị “chia năm xẻ bảy” và dân tộc đã phải trả những cái giá rất đắt từ điều này. Bản chất quyền lực nhà nước phải thống nhất và “phân chia quyền lực chỉ nên dừng lại ở khái niệm; nếu sự phân chia quyền lực vượt giới hạn của khái niệm và trở thành hiện thực thì quyền lực sẽ không thể nào còn thống nhất lại được nữa.Các nhánh quyền lực tách rời nhau tới mức phân liệt, kiềm chế  - đối trọng, đối lập và chống lại nhau. Lúc đó, muốn có được quyền lực nhà nước thống nhất lại phải dung đến đại bác[4]. Khi đại bác được dùng đến có nghĩa là có máu đổ, xương rơi nên không có lý do chính đáng nào chúng ta lại đánh đổi sự ổn định, trật tự để lấy một giá trị dân chủ hỗn loạn và đầy rủi ro như vậy.

3.   Kết luận

Xây dựng và hoàn thiện mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là một trong những đặc trưng quan trọng không thể thiếu trên con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự lãnh đạo của Đảng sẽ đảm bảo chúng ta không đi chệch hướng con đường mà dân tộc đã lựa chọn, sự thống nhất của quyền lực nhà nước sẽ đảm bảo cho sự ổn định về chính trị, xã hội để kịp thời triển khai các biện pháp cả về thể chế lẫn tổ chức hoạt động quản lý, điều hành mọi mặt của đời sống xã hội nhằm đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Điều này đòi hỏi chúng ta phải vững niềm tin về đường lối, chủ trương lãnh đạo của Đảng, đồng thời cần đẩy mạnh việc tuyên truyền để nâng cao nhận thức trong toàn xã hội cũng như để nhân dân tiến bộ trên thế giới nhìn nhận những giá trị tốt đẹp, tiến bộ, nhân văn và khoa học của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Mặt khác cũng cần kiên quyết đấu tranh, phản bác các luận điệu chống phá, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi “tam quyền phân lập” trong tổ chức quyền lực nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để bảo vệ vững chắc các thành quả mà đất nước, dân tộc đã đạt được.

 

 

Tài liệu tham khảo:

1.Nguyễn Đăng Dung, Luật Hiến pháp đối chiếu, Nxb.Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2001

2.Murse, Tom. "All 21 Government Shutdowns in U.S. History." ThoughtCo, Feb. 16, 2021, thoughtco.com/government-shutdown-history-3368274.

3. GT Investigates: US wages global color revolutions to topple govts for the sake of American control – true colors of “democracy” -https://www.globaltimes.cn/page/202112/1240540.shtml

4.https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/tin-binh-luan/-/asset_publisher/DLIYi5AJyFzY/content/nhap-khau-thuyet-tam-quyen-phan-lap-hay-la-bai-co-xuy-bat-on-chinh-tri-xung-ot-quyen-luc

 

 

ThS. Nguyễn Thị Nụ - Trưởng khoa Nhà nước và pháp luật


<