Nghiên cứu khoa học - thực tế
Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực thành phố Cần Thơ: Thực trạng và giải pháp


Tóm tắt

Thành phố Cần Thơ giữ vai trò rất quan trọng cả về kinh tế - xã hội lẫn về quốc phòng - an ninh, là động lực phát triển của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực của thành phố có nhiều tiến bộ; số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực chuyển biến tích cực; trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từng bước được nâng lên, cơ bản đáp ứng nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, chất lượng nguồn nhân lực của thành phố, nhất là nguồn nhân lực có trình độ cao chưa đáp ứng yêu cầu; trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tuy được nâng lên nhưng chưa đồng đều giữa các ngành, lĩnh vực. Bài viết tập trung nghiên cứu lý luận về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, trên cơ sở đó, đi sâu phân tích những thành tựu, hạn chế và đưa ra những kiến giải để góp phần đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho thành phố Cần Thơ trong thời gian tới.

1. Mở đầu

Cũng như hầu hết các nước, Việt Nam luôn xác định nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng so với các nguồn lực khác trong phát triển kinh tế - xã hội và công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Là nước “đi sau” về phát triển kinh tế so với một số nước trong khu vực và thế giới, để rút ngắn khoảng cách và tiến tới đuổi kịp các nước phát triển, Việt Nam phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phải “đi tắt”, “đón đầu”. Muốn thực hiện được điều này, cần phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, có đủ trình độ để nghiên cứu, tiếp thu, vận dụng một cách sáng tạo những thành tựu khoa học - công nghệ mới nhất của nhân loại vào thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước.

Cần Thơ là thành phố đóng vai quan trọng và là động lực phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), được trở thành thành phố trực thuộc Trung ương theo Nghị quyết số 22/2003/QH11 của Quốc hội. Đặc biệt, vào ngày 17 tháng 02 năm 2005, được Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 45-NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có bước phát triển mới, số lượng người lao động có trình độ khoa học - công nghệ, chuyên môn, tay nghề cao ngày càng tăng, phục vụ khá tốt yêu cầu xây dựng và phát triển thành phố trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, vẫn còn một số cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) tuy đạt chuẩn về trình độ nhưng năng lực còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu công việc. Lực lượng lao động tay nghề, chuyên môn cao, cán bộ, chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực công nghệ cao còn thiếu.

 Để hiểu sâu sắc hơn về vấn đề trên thì cần đi sâu nghiên cứu, phân tích từ cơ sở lý luận về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đến thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực thành phố Cần Thơ trong thời gian qua. Đồng thời, để góp phần phát triển bền vững thành phố trong những giai đoạn kế tiếp cũng như trở thành hạt nhân và tác động lan tỏa về kinh tế ­- văn hóa - xã hội đối với vùng ĐBSCL theo chủ trương của Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2020 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 thì nhiều giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cần được đề xuất và quan tâm thực hiện đồng bộ.

2. Cở sở lý luận

Con người - nguồn nhân lực luôn trở thành mối quan tâm hàng đầu và có vai trò quyết định đối với sự phát triển của đất nước. V.I Lênin từng khẳng định: “Chính con người, khi phát triển sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình, đã làm biến đổi hiện thực đó của mình cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình”. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. Trong bản Di chúc của mình, Người đã căn dặn kỹ càng: “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Người cũng chỉ rõ: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.

Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ vĩ đại và nhận thức được vai trò quan trọng của nguồn nhân lực trong việc xây dựng đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, “nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định sự thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Tiếp theo, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) đã ban hành Nghị quyết về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000. Nghị quyết xác định: “Thực sự coi giáo dục - đào tạo, là quốc sách hàng đầu… Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân….”.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Ban chấp hành Trung ương báo cáo: “Công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta vẫn còn dưới mức khả năng phát triển của đất nước, hoạt động kinh tế xã hội vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập”, “Nước ta vẫn trong tình trạng kém phát triển. Nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và các nước trên thế giới vẫn tồn tại”. Một trong những nguyên nhân của thực trạng trên là do “chất lượng nguồn nhân lực của nước ta còn thấp”. Muốn cho đất nước phát triển ổn định và bền vững, điều quan trọng nhất là phải có chiến lược đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế tiếp tục khẳng định: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội”. Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

            Nhằm xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày 17 tháng 02 năm 2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 45-NQ/TW. Nghị quyết xác định: “Mở rộng quy mô, cơ cấu hợp lý và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo một cách đồng bộ; chú trọng đào tạo nghề, đào tạo cao đẳng, đại học để đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực có chất lượng cao cho thành phố và các tỉnh trong vùng”. Nhằm triển khai thực hiện chủ trương của Trung ương, Thành ủy Cần Thơ đã ban hành nhiều nghị quyết, kế hoạch. Cụ thể, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Cần Thơ, nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã xác định khâu đột phá đầu tiên là “Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao, đi đôi với chuẩn hóa đội ngũ cán bộ chủ chốt ngang tầm nhiệm vụ...” và Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 27 tháng 12 năm 2016 về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực thành phố đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Ban Thường vụ Thành ủy ban hành Kế hoạch số 63-KH/TU ngày 27 tháng 9 năm 2017 về đào tạo, bồi dưỡng nguồn quy hoạch cấp ủy và chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp thành phố, giai đoạn 2017 - 2020.

Thực hiện chủ trương trên của Thành ủy, các cấp, các ngành trong thành phố đã xây dựng các nghị quyết, chương trình, kế hoạch, đề án và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Cụ thể, Hội đồng nhân dân thành phố ban hành Nghị quyết số 42/NQ-HĐND ngày 22 tháng 7 năm 2016 về thực hiện Đề án “Nâng cao năng lực hội nhập quốc tế cho cán bộ, công chức, viên chức và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2016 - 2021 của thành phố Cần Thơ và Nghị quyết số 16/NQ-HĐND ngày 11 tháng 7 năm 2018 về thực hiện Đề án “Bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của thành phố Cần Thơ tại Trường Đại học California, Riverside, Hoa Kỳ, giai đoạn 2018 – 2020”. Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Quyết định số 13/2015/QĐ-UBND ngày 10 tháng 3 năm 2015 quy định về thực hiện Chính sách thu hút, hỗ trợ, khuyến khích nguồn nhân lực của thành phố; Chỉ thị số 06/CT-UBND ngày 23 tháng 3 năm 2017 thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU và Kế hoạch số 02/KH-UBND về việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU của Thành ủy. Hàng năm, Ủy ban nhân dân thành phố đều ban hành và thực hiện các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn thành phố.

3. Thực trạng

Trong những năm qua, thành phố Cần Thơ đã thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng như sau:

Thứ nhất, công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCCVC ngày càng chặt chẽ, chất lượng ngày càng được nâng cao và phù hợp yêu cầu vị trí việc làm. Giai đoạn 2017 - 2020, thành phố đã cử 38.596 lượt CBCCVC đào tạo, bồi dưỡng, trong đó: đào tạo chuyên môn 3.687 lượt (tiến sĩ: 39; thạc sĩ 357); chính trị: 2.357 lượt; bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước: 3.385 lượt; bồi dưỡng, cập nhật kiến thức theo vị trí việc làm: 26.921 lượt; ngoại ngữ, tin học: 2.246 lượt.

Thứ hai, quan tâm tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ lãnh đạo, quản lý; các chuyên đề bổ trợ chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy và học cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục. Giai đoạn 2017 - 2020, đã tổ chức thực hiện 184 lớp đào tạo, bồi dưỡng với 18.291 lượt người tham dự; nội dung đào tạo, bồi dưỡng tập trung ở các lĩnh vực đào tạo nâng chuẩn từ trung học sư phạm lên đại học sư phạm; cao đẳng sư phạm lên đại học sư phạm.

Thứ ba, thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các cơ chế, chính sách khuyến khích đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực của thành phố cho phù hợp yêu cầu phát triển thành phố.

Thứ tư, quan tâm, bố trí kinh phí đảm bảo thực hiện đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực thành phố hàng năm. Bố trí tổng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng giai đoạn 2017 - 2020 là 108,493 tỷ đồng; trong đó, đào tạo chuyên môn là 69,451 tỷ đồng; khuyến khích sau đào tạo là 37,816 tỷ đồng; thu hút nguồn nhân lực là 1,226 tỷ đồng.

Thứ năm, thực hiện đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chuyên sâu, kỹ thuật cao thuộc lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, du lịch nhằm phát huy đội ngũ cán bộ, chuyên gia giỏi trong công tác chuyên môn để từng bước đẩy mạnh công tác đào tạo nghề và nâng cao chất lượng lao động gắn với nhu cầu sử dụng lao động. Kết quả, giai đoạn 2017 - 2020 đã tổ chức 390 lớp dạy nghề cho lao động nông thôn, đào tạo 13.093 người, trong đó các ngành nông nghiệp là 2.777 người, phi nông nghiệp là 10.316 người. Tỷ lệ học viên sau khi học nghề xong có việc làm đạt trên 90%.

Thứ sáu, quy mô mạng lưới cơ sở Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) ngày càng được củng cố và nâng cao về chất lượng đào tạo. Đến nay trên địa bàn thành phố có 83 cơ sở GDNN; công tác GDNN đã c chuyển biến rõ nét, đáp ng được nhu cu ca người hc, th trưng lao đng và doanh nghip. Số lượng học viên tại các cơ sở GDNN được tuyển mới và đào tạo năm sau cao hơn năm trước; tỷ lệ lao động qua đào tạo trên tổng số lao động trong nền kinh tế quốc dân được nâng từ 69% (năm 2017) lên 73,5% (năm 2019). Đồng thời, đào tạo bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cho 1.624 lượt cán bộ quản lý, nhà giáo.

Thứ bảy, huy động nguồn lực, đẩy mạnh xã hội hóa, kêu gọi đầu tư nâng cấp một số trường đại học, cao đẳng; khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ chức đào tạo có uy tín trong và ngoài nước hợp tác, liên kết đào tạo và các hoạt động hỗ trợ đào tạo khác cũng được thành phố quan tâm thực hiện tốt, góp phần nâng cao trình độ CBCCVC, tạo điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn thành phố, đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao của thành phố. Kết quả giai đoạn 2017 - 2020, thành phố thực hiện được 23 dự án thuộc lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, lũy kế vốn đã bố trí từ khởi công đến tháng 8 năm 2020 là 746,495 tỷ đồng.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, việc thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực thành phố vẫn còn một số tồn tại, hạn chế sau:

Một là, công tác quy hoạch đào tạo tại một số cơ quan, đơn vị đôi khi thiếu tính đồng bộ, còn mang tính chủ quan, đôi khi chưa bám sát nhiệm vụ, vị trí việc làm của CBCCVC và định hướng phát triển của thành phố.

Hai là, công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCCVC ở nước ngoài có sự quan tâm của thành phố, tuy nhiên việc cử CBCCVC đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài đa số từ nguồn ngân sách thành phố hoặc theo các chương trình hợp tác, học bổng ... nên việc chọn và cử CBCCVC đào tạo cũng còn hạn chế nhất định.

Ba là, việc thực hiện chính sách thu hút người có trình độ chuyên môn cao, đội ngũ chuyên gia giỏi thuộc các chuyên ngành phù hợp với yêu cầu phát triển của thành phố chưa nhiều, đặc biệt là các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ - kỹ thuật đang thiếu chuyên gia đầu ngành.

Bốn là, việc đẩy mạnh xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực, kêu gọi đầu tư nâng cấp một số trường đại học, cao đẳng và cơ sở GDNN trên địa bàn thành phố nhìn chung đã đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực của thành phố, tuy nhiên việc thực hiện xã hội hóa trong cử đào tạo CBCCVC cũng còn khó khăn nhất định.

Năm là, công tác đào tạo nghề lao động nông thôn đã có bước phát triển, tuy nhiên cũng còn gặp không ít khó khăn trong việc lựa chọn ngành, nghề, định hướng thu nhập cho lao động, nên phần nào ảnh hưởng đến tâm lý người học; các điều kiện đảm bảo chất lượng GDNN vẫn còn nhiều hạn chế, cơ sở vật chất tuy được quan tâm nhưng chưa hoàn thiện, thiếu giáo viên cơ hữu (đặc biệt đối với các Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp – Giáo dục thường xuyên quận, huyện).

      4. Giải pháp

Nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên, một số giải pháp cần được thực hiện như sau:

Thứ nhất, tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nhất là Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19 tháng 5 năm 2018 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) và Nghị quyết số 05-NQ/TU của Thành ủy Cần Thơ về việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực thành phố Cần Thơ đến năm 2020 và những năm tiếp theo.

Thứ hai, chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng, nội dung, chương trình giảng dạy, học tập; quan tâm đào tạo đội ngũ giảng viên, đầu tư cơ sở vật chất cho Trường Chính trị, các Trung tâm Bồi dưỡng chính trị và các cơ sở đào tạo của địa phương, kết hợp đẩy mạnh xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực phục vụ tốt yêu cầu công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và phát triển nguồn nhân lực của địa phương.

Thứ ba, quan tâm đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo hướng thiết thực, hiệu quả nhằm nâng cao trình độ cho lao động nghề nông thôn, đáp ứng tình hình phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương, gắn với tạo việc làm và định hướng nghề nghiệp để tạo cơ hội việc làm cho lao động nông thôn; đồng thời làm tốt công tác định hướng về nghề nghiệp cho người lao động khi tham gia đào tạo; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tư vấn, hướng nghiệp, khởi nghiệp.

Thứ tư, tiếp tục rà soát cơ chế, chính sách thu hút, khuyến khích phù hợp yêu cầu năng lực của thành phố; đề xuất nội dung chính sách trọng dụng và đãi ngộ đối với người có tài năng trong hoạt động công vụ phù hợp với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức và các quy định của Đảng và Nhà nước có liên quan.

Thứ năm, chủ động quan hệ, phối hợp chặt chẽ với các cơ sở đào tạo trong nước, mở rộng liên kết với cơ sở đào tạo nước ngoài, nhất là cơ sở đào tạo thuộc hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các trường đại học có uy tín ở nước ngoài để thực hiện đa dạng các hình thức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, cán bộ nguồn các cấp, đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển địa phương và hội nhập quốc tế.

Thứ sáu, thực hiện tốt việc kiểm tra, giám sát công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết để đánh giá những mặt đạt được, những tồn tại, hạn chế; phát huy, nhân rộng những mặt tích cực, cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả, đồng thời đề ra giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế.

5. Kết luận

Cần Thơ giữ vai trò là động lực phát triển của vùng ĐBSCL. Việc phát triển nhanh, toàn diện và bền vững Cần Thơ không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của các tỉnh trong Vùng mà còn góp phần quan trọng vào sự phát triển chung của cả nước. Trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực của thành phố đạt được nhiều kết quả đáng được ghi nhận; tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định, cần có những giải pháp hữu hiệu để đẩy mạnh công tác này trong thời gian tới, như: cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng, nội dung, chương trình giảng dạy, học tập; quan tâm đào tạo nghề cho lao động nông thôn; ban hành chính sách trọng dụng và đãi ngộ đối với người có tài năng; chủ động, mở rộng liên kết với cơ sở đào tạo nước ngoài và thực hiện tốt việc kiểm tra, giám sát công tác đào tạo, bồi dưỡng.

 

Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật.

3. Đặng Xuân Hoan, Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, Tạp chí cộng sản.

4. Hồ Chí Minh, Di chúc, ngày 10 tháng 5 năm 1969.

5. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, tập 11, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2011.

6. Lê-Nin: Toàn tập, tập 18, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2005.

7. Mai Thanh Dân, Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở Cần Thơ, Tạp chí Xây dựng đảng, số 09/2019.

8. Thành ủy Cần Thơ, Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 27 tháng 12 năm 2016 về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực thành phố đến năm 2020 và những năm tiếp theo.

9. Ủy ban nhân dân