Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt - Một lãnh đạo dám nói, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm
Tóm
tắt: Nhân
kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt (23/11/1922 –
23/11/2022). Bài viết tìm hiểu về vị lãnh đạo tận trung với nước, tận hiếu với
dân, đặc biệt là một vị lãnh đạo có tư duy chiến lược, sắc sảo, nhạy bén với
tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có nhiều cống hiến to lớn cho
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. 1.
Đặt vấn đề Đồng
chí Võ Văn Kiệt tên thật là Phan Văn Hòa sinh ngày 23/11/1922, bí danh Sáu Dân,
là người con ưu tú của quê hương Vĩnh Long và dân tộc Việt Nam. Ông là tấm
gương mẫu mực, nhà lãnh đạo tài năng, có uy tín lớn của Đảng và Nhà nước ta, là
người cán bộ hết lòng vì nước, vì dân: dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm
vì công việc chung, không quản ngại khó khăn, gian khổ, việc gì có lợi cho
Đảng, cách mạng, cho đất nước, cho Nhân dân thì ông quyết tâm thực hiện. Cuộc đời và sự nghiệp
của ông gắn liền với lịch sử đấu tranh cách mạng hào hùng của Đảng và dân tộc
Việt Nam. Từ năm 16 tuổi, ông đã giác ngộ cách mạng, tham gia phong trào Thanh
niên phản đế và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 17 tuổi. Trong
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, ông đã trải qua nhiều cương vị khác
nhau: năm tuổi 18, ông được giao làm Bí thư Chi bộ xã Trung Hiệp, Huyện ủy viên
huyện Vũng Liêm, lãnh đạo Nhân dân nổi dậy cướp chính quyền ở huyện lỵ Vũng
Liêm. Sau đó, ông được Đảng phân công giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu, Xứ uỷ
viên, Phó Bí thư Liên tỉnh uỷ Hậu Giang; Bí thư Khu uỷ T4… Tại Đại hội III
(9/1960) của Đảng được bầu làm Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
năm 1972 là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Khu uỷ Khu 9. Từ năm 1973 đến năm 1975: Bí thư Đảng uỷ đặc biệt trong Uỷ ban
quân quản Thành phố Sài Gòn, sau đó là Bí thư Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh.
Từ tháng 12/1976: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của
Đảng, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung
ương Đảng bầu làm Uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư Thành uỷ
Thành phố Hồ Chí Minh. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng được
bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu
vào Bộ Chính trị; Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban Kế
hoạch Nhà nước. Từ tháng 12/1986: Tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban
Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào Bộ Chính trị; Phó Chủ tịch Thường trực rồi
Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng. Từ năm 1991 đến năm 1997: Làm
Thủ tướng Chính phủ. Tại Đại hội VII (6/1991) và Đại hội VIII (6/1996) được bầu
vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào
Bộ Chính trị. Từ tháng 12/1997: Tại Hội nghị lần thứ tư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung
ương. Một
điểm nổi bật của ông là trên bất kỳ cương vị công tác nào, ở bất cứ nơi đâu, ông
đều thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng, hết lòng vì công việc chung, không
ngại khó, không ngại khổ, dám nghĩ, dám làm và sẵn sàng chịu trách nhiệm trước
những quyết định của mình. 2. Nội dung Trong
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt luôn thể hiện
việc am hiểu thực tiễn, con người của công việc, miệng nói, tay làm, rất năng
động và đầy nhiệt huyết, cả cuộc đời gắn bó với Nhân dân, với phong trào cách
mạng và đưa ra những quyết định mang tính lịch sử ở những giai đoạn nhất định.
Khi làm bất cứ việc gì, ông cũng luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, chỉ đạo sâu
sát, đôn đốc tận nơi để công việc có hiệu quả. Ông luôn nêu cao tinh thần tiền
phong, gương mẫu và giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; có tình yêu
thương đồng bào, đồng chí sâu sắc; luôn gắn bó mật thiết với Nhân dân, trăn trở
suy nghĩ vì đồng bào, vì cách mạng: “bám
sát thực tiễn cách mạng, bằng tư duy sắc sảo, nhạy bén, sáng tạo, tinh thần dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đồng chí đã có nhiều đóng góp to lớn cùng
toàn Đảng, toàn dân vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, đưa sự nghiệp cách
mạng luôn tiến lên phía trước” (Lời điếu văn của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh,
Trưởng ban Lễ tang đọc tại Lễ truy điệu đồng chí Võ Văn Kiệt, ngày 15/6/2008). Sau Hiệp định Giơnevơ
(7/1954), đồng chí Võ Văn Kiệt được Đảng phân công bí mật ở lại miền Nam, tiếp
tục chỉ đạo phong trào cách mạng miền Nam. Trong tình thế khó khăn của cách
mạng miền Nam khi đó, đồng chí Võ Văn Kiệt đã thể hiện bản lĩnh vững vàng, bám
sát địa bàn, chỉ đạo cơ sở đấu tranh với kẻ thù. Với sự nhạy cảm của một nhà
hoạt động cách mạng, ông có những nhận định hết sức đúng đắn về âm mưu, thủ
đoạn của kẻ thù, kịp thời đề ra những đối sách, chỉ đạo phong trào cách mạng. Xuất
phát từ thực tiễn của cách mạng miền Nam, nắm bắt yêu cầu, nguyện vọng đấu
tranh của quần chúng, đồng chí Võ Văn Kiệt đã có những ý kiến đề xuất với đồng
chí Lê Duẩn, góp phần bổ sung cơ sở lý luận và thực tiễn cho bản Đề cương cách
mạng miền Nam, để từ đó Đảng ta nghiên cứu, hoàn thiện cho ra đời Nghị quyết 15
lịch sử, thổi bùng lên phong trào Đồng khởi, tạo bước ngoặt quan trọng của cách
mạng miền Nam. Sau Hiệp định Paris
năm 1973, trên cương vị là Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam, Bí thư
Khu ủy kiêm Chính ủy Quân khu 9, ông nắm chắc tình hình thực tế lúc bấy giờ,
chứng kiến những vi phạm trắng trợn Hiệp định Paris của Mỹ và chính quyền Sài
Gòn, từ đó ông xác định “không mơ hồ, ảo tưởng” và ông đã chỉ đạo Khu ủy và Bộ
Tư lệnh Quân khu đưa ra những quyết định mang tính lịch sử “Đánh địch lấn
chiếm, giữ đất giữ dân”; kiên quyết, chủ động và liên tục tiến công địch trên
các mặt trận, cả nông thôn và thành thị. Ông chỉ thị cho các tỉnh và lực lượng
vũ trang Quân khu đứng vững trên địa bàn, dựa vào dân; khi đồn bót địch bung ra
và lực lượng chủ lực của chúng càn quét chiếm đất, giành dân thì cương quyết
đánh trả để bảo vệ dân, giữ đất, nếu để mất đất, mất dân là có tội với Nhân
dân, với Đảng. Ông đã điện báo cáo và trình bày quan điểm với Bộ Chính trị và
chịu trách nhiệm trước cấp trên với quyết định của mình, đó là bản lĩnh của
người lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược, ông xác định: “Nếu không chống địch lấn chiếm, để mất đất, mất dân lúc này là mất tất
cả” [4, tr.24]. Với quyết định đúng đắn và rất sáng tạo đó, chỉ trong thời
gian ngắn, quân và dân Khu 9 đã làm thất bại âm mưu lấn chiếm của địch, mở rộng
thêm nhiều vùng giải phóng, tạo nên thế và lực mới rất quan trọng, là một trong
những cơ sở để Đảng ta đưa ra quyết định phát động cuộc tổng tiến công và nổi
dậy giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Sau ngày đất nước
thống nhất, ông luôn day dứt về nguy cơ tụt hậu của đất nước, về sự tăng trưởng
bền vững của nước nhà, làm sao phát huy được tiềm năng sẵn có trong Nhân dân để
tận dụng cơ hội, bứt phá đưa đất nước phát triển nhanh hơn. Với tầm nhìn xa, tư
tưởng nhân văn, đoàn kết, hòa hợp, chủ động khép lại quá khứ chiến tranh và
hướng tới tương lai. Khi đảm nhiệm cương vị lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh
trong điều kiện đất nước nói chung, Thành phố nói riêng gặp nhiều khó khăn về
đời sống kinh tế và nhiều vấn đề xã hội phát sinh, ông đã cùng lãnh đạo Thành
phố đưa ra nhiều quyết sách hết sức năng động, phù hợp với tình hình thực tiễn,
từng bước tháo gỡ khó khăn, đưa Thành phố dần đi vào ổn định để rồi sau đó trở
thành đầu tàu kinh tế của cả nước. Ông được mệnh danh là “Chủ tịch gạo”, “Bí
thư phá rào”, “Tướng xé rào” vì ông đã luôn sáng tạo, vượt qua lối mòn tư duy
cũ, đi sâu tìm hiểu các vấn đề, từ đó những quyết định của ông đưa ra không rập
khuôn, giáo điều, mà luôn bám sát yêu cầu của thực tiễn cách mạng và vì lợi ích
chung của đất nước, của Nhân dân. Sau hơn một
năm giải phóng, khi nguồn nguyên liệu dự trữ cạn dần, lại thực hiện lối sản xuất
kinh doanh khác với trước đó, nên tình hình kinh tế thành phố Hồ Chí Minh ngày
càng xuống dốc và bước vào sự khủng hoảng trầm trọng. Nhân dân phải ăn độn hạt
bo bo, khoai, sắn, ông không cam tâm để người dân đói. Ông đã mời giám đốc Ngân
hàng, Công ty lương thực, Sở Tài chính, Sở Giao thông vận tải đến giao nhiệm vụ
cụ thể để xuống các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long mua lúa theo giá sát thị
trường. Có thể khẳng định: “Với
một trí tuệ mẫn tiệp, sẵn sàng lắng nghe, ủng hộ, cỗ vũ và dấn thân cho cái
mới, sâu sát thực tế, đồng chí đã có những đóng góp xứng đáng cả tư duy và hành
động trong việc xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, hoạch định và thực
hiện đường lối đổi mới đất nước” [3, tr.45]. Trong quá trình lãnh
đạo xây dựng đất nước, thực hiện công cuộc đổi mới. Với tầm nhìn chiến lược, tính
cách nổi bật là quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, sẵn sàng
dấn thân cho cái mới, ông đã động viên các tầng lớp Nhân dân tham gia vào công
cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc của đất nước. Ông là tổng công trình sư của những
dự án lớn, quan trọng trong giai đoạn đất nước thực hiện công cuộc đổi mới như:
Thủy điện Trị An; khai phá Đồng Tháp Mười và tứ giác Long Xuyên, ngọt hóa bán
đảo Cà Mau; công trình đường dây tải điện 500KV Bắc - Nam; đường Bắc Thăng Long
- Nội Bài; đường Hồ Chí Minh; Nhà máy lọc dầu Dung Quất và phát triển ngành dầu
khí, viễn thông, hàng không, xây dựng các khu công nghệ cao Hòa Lạc; Làng văn
hóa các dân tộc Việt Nam... Tất cả nói lên tâm huyết và những nỗ lực phi thường
của cố Thủ tướng trong tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, để lại “dấu
ấn Võ Văn Kiệt” góp phần xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất
nước, đồng thời thể hiện tầm nhìn, trí tuệ của một nhà lãnh đạo xuất sắc. Cố
Thủ tướng Võ Văn Kiệt là người luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, của Nhân dân lên
trên lợi ích cá nhân, ông ghét phô trương, hình thức, sống chân thành, giản dị,
luôn đồng cam cộng khổ, sống chan hòa cùng quần chúng. Quan điểm đổi mới của
ông thể hiện ở: “Đổi mới không phải là
xóa bỏ hoàn toàn cái cũ hay từ bỏ chủ nghĩa xã hội mà là nhận thức lại một cách
đúng đắn hơn về một chủ nghĩa xã hội nhân bản, hoàn thiện, với lý tưởng phục vụ
con người, vì con người” [5, tr.5)] Trong quan hệ ngoại
giao với các nước, trên cương vị Thủ tướng Chính phủ, ông đã cùng tập thể Bộ
Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương thực hiện đường lối ngoại giao rộng mở,
thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ với các nước như: Trung Quốc, Mỹ, đa
phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế, thiết lập sự liên kết kinh tế khu
vực và thế giới (với ASEAN, Nhật Bản và EU...). Cụ thể, ông nêu nhiều sáng kiến
táo bạo để phá vây, triển khai, chiến lược ngoại giao “Hoa sen nở”. Về việc gia
nhập ASEAN trong nội bộ lúc ấy có ý kiến khác nhau, song Thủ tướng Võ Văn Kiệt
đã quyết tâm tháo gỡ các cản trở cho bằng được, và khẳng định: Nếu rụt rè bỏ lỡ
cơ hội này sẽ là thảm họa cho đất nước. Đến ngày 28/7/1995, Việt Nam đã chính
thức trở thành thành viên ASEAN. Trong nhiệm kỳ Thủ tướng từ 1992 - 1997, Thủ
tướng Võ Văn Kiệt đã đi thăm chính thức 34 nước và Liên minh châu Âu, và đón
tiếp nhiều lãnh đạo cấp cao các nước thăm Việt Nam. Trong thời kỳ bị bao vây cấm vận vô cùng khó khăn, Thủ tướng là người
đóng vai trò then chốt trong việc cải thiện, mở ra quan hệ ngoại giao rộng lớn
của Việt Nam với các nước trên thế giới. 3. Kết luận Có thể khẳng định
rằng: suy nghĩ và hành động của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt là xuất phát từ tấm
lòng yêu nước, thương dân, lòng tự hào dân tộc sâu sắc, đồng chí đã chủ động
đến với Nhân dân để hiểu dân, học dân, hỏi dân, bàn bạc với dân và từ đó tìm ra
cách làm có hiệu quả nhất. Đồng thời với đó là tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám
chịu trách nhiệm vì lợi ích chung của Đảng, của đất nước, của Nhân dân, đồng
chí đã tạo nên một hình ảnh vị lãnh đạo được các thế hệ cán bộ, đảng viên, Nhân
dân ngưỡng mộ, tin yêu, quý trọng. Đại hội đại biểu Toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng đã nhấn mạnh yêu cầu cần phải “có cơ
chế bảo vệ
cán bộ đổi mới, sáng tạo,
dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu
trách nhiệm vì lợi ích chung” [2, tr.142].
Ngày 22/9/2021, Bộ
Chính trị đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW về “Chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng
tạo vì lợi ích chung”, theo đó cần nâng cao nhận thức, tăng cường trách nhiệm của cấp uỷ, tổ
chức đảng, nhất là người đứng đầu, tạo sự
thống nhất cao trong toàn Đảng và đồng thuận trong xã hội về chủ trương khuyến khích và bảo
vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,
dám đột phá vì lợi ích chung; khơi dậy mạnh mẽ ý thức trách nhiệm, khát vọng cống hiến,
tinh thần đổi mới, hết lòng, hết sức vì nhân dân phục vụ của đội ngũ cán bộ; trong quá trình thực hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao, xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn,
khuyến khích cán bộ có tư duy sáng tạo, cách làm đột phá, tháo gỡ, giải quyết
những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách, tập trung vào những vấn đề
chưa được quy định hoặc đã có quy định nhưng không phù hợp với thực tiễn, mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ, đóng
góp tích cực vào sự phát triển chung [1]. Những cống hiến của
cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt luôn được đất nước và Nhân dân ghi nhận, tinh thần,
thái độ làm việc của ông là bài học lớn để thế hệ trẻ ngày nay tiếp bước, noi
theo. Tài liệu tham khảo 1. Bộ Chính trị (2021),
Kết luận số 14-KL/TW ngày 22/9/2021
về “Chủ trương khuyến
khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung”. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, HN. 3. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh ủy Vĩnh Long (2012), Đồng chí Võ Văn Kiệt với cách mạng Việt Nam,
Nxb CTQG, HN. 4. Nhiều tác giả (2010), Võ Văn Kiệt - người
thắp lửa, Nxb Trẻ, TPHCM. 5. Những mẫu chuyện về anh Sáu Dân (Nguyên
Thủ tướng Võ Văn Kiệt) (2008), Nxb Thông tấn, HN. TS Bùi Hải Dương - Trưởng khoa Xây dựng Đảng |
|