Nghiên cứu khoa học - thực tế
Chuyển đổi số trong hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn thành phố Cần Thơ - Thực trạng và giải pháp


Tóm tắt: Chuyển đổi số có vai trò đặc biệt quan trọng trong cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển hàng hóa tập trung, quy mô lớn theo hướng hiện đại, giá trị gia tăng cao và bền vững. Trong thời gian qua, các hợp tác xã nông nghiệp ở thành phố Cần Thơ chú trọng công tác chuyển đổi số và được xem là giải pháp đột phá về năng suất, chất lượng và nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn trong hoạt động chuyển đổi số của các hợp tác xã nông nghiệp. Từ thực tiễn trên, cần phải có những giải pháp thiết thực nhằm tháo gỡ những khó khăn của hợp tác xã nông nghiệp ở thành phố thực hiện chuyển đổi số thành công.

Từ khóa: chuyển đổi số, hợp tác xã, nông nghiệp, thành phố Cần Thơ.

Mở đầu

Chuyển đổi số đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất của cải vật chất, góp phần nâng cao hiệu quả, năng suất và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế.Việc chuyển đổi số trong các hợp tác xã nông nghiệp tại thành phố Cần Thơ hiện nay là một yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng cường khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững. Trong bối cảnh nông nghiệp đối mặt với nhiều thách thức như biến đổi khí hậu, thị trường biến động và yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm, chuyển đổi số giúp hợp tác xã ứng dụng công nghệ vào quản lý sản xuất, truy xuất nguồn gốc, tiếp cận thị trường trực tuyến và tối ưu hóa chuỗi giá trị nông sản. Thành phố Cần Thơ đã triển khai các chương trình hỗ trợ hợp tác xã trong việc áp dụng công nghệ thông tin, đào tạo kỹ năng số cho nông dân và xây dựng các nền tảng thương mại điện tử để quảng bá và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Những nỗ lực này không chỉ giúp hợp tác xã nông nghiệp ở thành phố Cần Thơ nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm mà còn mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng thu nhập cho thành viên và góp phần vào sự phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vững của địa phương.

1.Chủ trương của Đảng và Nhà nước về chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp

Chuyển đổi số trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp là một nội dung quan trọngtrong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trước bối cảnh toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu, dân số tăng nhanh và nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao, Đảng xác định rằng nông nghiệp Việt Nam cần phải đổi mới toàn diện, trong đó chuyển đổi số là một giải pháp chiến lược mang tính đột phá. Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, chuyển đổi số được nhấn mạnh là một trong ba trụ cột quan trọng của quá trình phát triển đất nước, bên cạnh kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn. Đối với nông nghiệp, Đảng khẳng định chuyển đổi số sẽ là động lực để thúc đẩy tái cơ cấu ngành theo hướng hiện đại, bền vững, nâng cao giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế[1].

Quan điểm của Đảng là đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, công nghệ IoT và các nền tảng số trong tất cả các khâu của chuỗi giá trị nông nghiệp – từ sản xuất, chế biến, bảo quản, phân phối đến tiêu thụ sản phẩm. Đảng khuyến khích phát triển nông nghiệp chính xác, nông nghiệp thông minh, thúc đẩy truy xuất nguồn gốc sản phẩm và minh bạch thông tin, từ đó xây dựng lòng tin với người tiêu dùng trong và ngoài nước. Ngoài ra, Đảng cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng hệ sinh thái chuyển đổi số trong nông nghiệp, trong đó doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân, viện nghiên cứu và Nhà nước cùng phối hợp để tạo nên một hệ thống đồng bộ, hiệu quả.

Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới. Nghị quyết đã đặt ra mục tiêu đến năm 2030 sẽ có 45.000 hợp tác xã với 8 triệu thành viên; 340 liên hiệp hợp tác xã với 1.700 hợp tác xã thành viên trong đó có trên 5.000 hợp tác ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Đến năm 2045, các tổ chức kinh tế tập thể đều áp dụng công nghệ, nhất là chuyển đổi số vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ.

Trên cơ sở đó,ngày 23/10/2023, Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ đã ban hành Kế hoạch số 219/KH-UBND triển khai thực hiện Nghị quyết số 106/NQ-CP ngày 18/7/2023 của Chính phủ về phát triển hợp tác xã nông nghiệp trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố Cần Thơ. Mục tiêu của Kế hoạch là nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp theo định hướng phát triển bền vững; ứng dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; ưu tiên phát triển hợp tác nông nghiệp gắn với phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức; mở rộng quy mô, thu hút nông dân, người sản xuất, kinh doanh nông nghiệp tham gia, đưa hợp tác xã nông nghiệp trở thành mô hình kinh tế - xã hội quan trọng ở khu vực nông thôn; góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng; tăng thu nhập cho người nông dân; bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; tạo điều kiện, động lực thu hút đầu tư, đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

2.Thực trạng công tácchuyển đổi số của các hợp tác xã nông nghiệp ở thành phố Cần Thơ hiện nay

2.1. Một số kết quả nổi bật

Thành phố Cần Thơ có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, thủy văn thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, với diện tích đất nông nghiệp 114.256ha (chiếm 80% diện tích tự nhiên) trong đó có hơn 77.000ha đất sản xuất lúa, với sản lượng hơn 1,35 triệu tấn/năm và hơn 25.000ha cây ăn trái, với sản lượng 220.000 tấn/năm... Thành phố hiện có khoảng 500 cơ sở chế biến nông sản, có khoảng 45 doanh nghiệp chế biến xuất khẩu gạo và hơn 40 doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản[2]. Đến nay, thành phố Cần Thơ có tổng số 347 hợp tác xã, trong đó có 185 hợp tác xã nông nghiệp, chiếm 53.3% tổng số lượng hợp tác xã của toàn Thành phố. Đồng thời, Thành phố đã hình thành được các vùng sản xuất nông sản có quy mô hàng hóa lớn như mô hình cánh đồng lớn khoảng 35.000ha, các vùng trồng cây ăn trái tập trung hơn 10.000ha, vùng nuôi cá tra tập trung với hơn 7.000ha[3]. Xác định chuyển đổi số có ý nghĩa hết sức quan trọng, thời gian qua, Liên minh Hợp tác xã thành phố Cần Thơ đã tăng cường các giải pháp nhằm hỗ trợ các Hợp tác xã ứng dụng chuyển đổi số trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thông qua việc ứng dụng công nghệ số, nhiều Hợp tác xã đã mở rộng được mạng lưới kinh doanh, kết nối quảng bá, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Thời gian qua, các Hợp tác xã nông nghiệp chú trọng công tác chuyển đổi số và được xem là giải pháp đột phá về năng suất, chất lượng và nâng cao năng lực cạnh tranh; đồng thời bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm, phát triển theo hướng nông nghiệp xanh, sạch, nông nghiệp thông minh. Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong Hợp tác xã nông nghiệp được đẩy mạnh như hình thành hệ thống các cơ sở dữ liệu, thông tin thống kê phân tích, dự báo, giúp công tác quản lý ngành ngày càng hoàn thiện, nâng cao chất lượng hàng hóa nông sản. Một số mô hình tiêu biểu như Mô hình sản xuất lúa ứng dụng công nghệ cao ở Hợp tác xã nông nghiệp Trung An; trồng dưa lưới trong nhà màng của Hợp tác xã Nông sản xanh; sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt của Hợp tác xã giống nông nghiệp Thốt Nốt; kết hợp sử dụng điều khiển quy trình canh tác nông nghiệp qua thiết bị số thông minh (smartphone, máy tính bảng) của Hợp tác xã Khiết Tâm; nuôi lươn theo tiêu chuẩn VietGAP; Hệ thống tưới sử dụng pin năng lượng mặt Trời,... 

Theo đánh giá của Liên minh Hợp tác xã thành phố, thực trạng chuyển đổi số của các Hợp tác xã nông nghiệp có sự khác nhau. Trong đó, có khoảng 15% Hợp tác xã nông nghiệp áp dụng công nghệ cao trong canh tác, nuôi trồng, bảo quản; áp dụng công nghệ sinh học, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và kinh doanh, phần mềm quản lý. Bên cạnh đó, có khoảng 10% Hợp tác xã nông nghiệp bán các sản phẩm trên nền tảng thương mại điện tử, sử dụng website để giới thiệu, quảng bá, bán hàng, thực hiện phương thức tiếp thị trên các nền tảng số, quảng cáo trên facebook, google... Điều kiện về trang thiết bị công nghệ thông tin của một số Hợp tác xã hội cơ bản đáp ứng yêu cầu để áp dụng phần mềm quản lý dữ liệu và truy xuất nguồn gốc. Đồng thời, có khả năng đáp ứng việc nâng cấp, ứng dụng công nghệ số và cập nhật phần mềm quản lý, truy xuất nguồn gốc sản phẩm... vào sản xuất nông nghiệp. Tiêu biểu là Hợp tác xã nông nghiệp công nghệ cao Giọt Phù Sa, ở huyện Phong Ðiền với sản phẩm sản phẩm sợi sấy thăng hoa đông trùng hạ thảo của Hợp tác xã đã thu về quả ngọt, được tôn vinh là 100 sản phẩm tiêu biểu của Hợp tác xãcả nước và được Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trao giải thưởng “Mai An Tiêm” lần thứ nhất vào trung tuần tháng 12 năm 2024.Hợp tác xã Vườn cây ăn trái Trường Khương A được thành lập năm 2017 có 25 thành viên, hiện nay có 45 thành viên chính thức và 45 hộ liên kết sản xuất với diện tích 45,5ha; trong đó diện tích trồng vú sữa Lò Rèn, bơ hồng khoảng 25,5ha, còn lại là 20 ha sầu riêng Ri6. Hiện nay, vú sữa của Hợp tác xã được canh tác theo quy trình VietGAP, Global GAP; được ký kết hợp đồng thu mua với các công ty để xuất khẩu sang Hoa Kỳ và nhiều thị trường khó tính khác. Năm 2024, Hợp tác xã đã thu hoạch trên 250 tấn vú sữa; trong đó có khoảng 100 tấn trái xuất khẩu với mức giá trung bình từ 50.000-55.000 đồng/kg. Đối với cây sầu riêng, Hợp tác xã cũng định hướng cho các thành viên sản xuất theo hướng “sạch”, hướng dẫn kỹ thuật xử lý ra trái nghịch vụ để bán được giá cao. Trung bình mỗi năm, Hợp tác xã cung ứng ra thị trường khoảng 350-400 tấn sầu riêng Ri6, với giá bán từ 60.000-110.000 đồng/kg, thu lợi nhuận hàng tỉ đồng[4].

2.2. Hạn chế

Quá trình chuyển đổi số diễn ra còn chậm, hàm lượng đổi mới sáng tạo còn rất ít, tỷ lệ thấp so với số lượng hợp tác xã đang hoạt động; việc chuyển đổi số chỉ thực hiện ở các khâu mà hợp tác xã bắt buộc phải chuyển đổi để đảm bảo các điều kiện sản xuất, kinh doanh theo quy định đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện, quy mô đầu tư phục vụ chuyển đổi số rất nhỏ, trình độ công nghệ không cao, không bắt kịp với xu hướng phát triển của công nghệ. Điều kiện để tiếp cận chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo còn yếu và thiếu như: Các trang thiết bị điện tử có kết nối internet; kỹ năng của cán bộ quản lý và thành viên để thực hiện chuyển đổi số còn nhiều hạn chế (dưới mức trung bình), chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Nhất là, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý các Hợp tác xã còn rất hạn chế (đa phần lớn tuổi, trình độ thấp) nên khó tiếp thu các kỹ năng sử dụng thành thạo smartphone, máy tính, cũng như sử dụng các kênh thương mại điện tử…trong thực hiện chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo[5].

Nguyên nhâncủa hạn chế:Nhận thức về tầm quan trọng của chuyển đổi số nói chung và chuyển đổi số tronghợp tác xã nông nghiệp nói riêng chưa thật sự sâu rộng, nhất là người đứng đầu. Thể hiện rõ qua việc chưa quyết liệt chỉ đạo, ưu tiên nguồn lực cho công tác này. Hoạt động chuyển đổi số ở một số hợp tác xã nông nghiệp còn mang nặng tính hình thức, phong trào, chưa thực chất, hiệu quả. Chưa xác định chuyển đổi số là nhân tố quan trọng quyết định sự thành công hoặc kém hiệu quả của mô hình kinh tế này.

3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chuyển đổi số trong hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp ở thành phố Cần Thơ

Thứ nhất, xây dựng cơ chế và chính sách hỗ trợ công tác chuyển đổi số đối với các hợp tác xã. Về thể chế, thành phố Cần Thơ cần kiến nghị và phối hợp với các bộ, ngành Trung ương để ban hành hoặc sửa đổi các văn bản pháp quy hướng dẫn cụ thể đối với chuyển đổi số trong hợp tác xã nông nghiệp. Đồng thời, thành phố cần chủ động lồng ghép nội dung chuyển đổi số vào các chương trình mục tiêu quốc gia đang được triển khai tại địa phương, như Chương trình xây dựng nông thôn mới và Chương trình phát triển kinh tế tập thể.Về chính sách hỗ trợ, cần thiết lập cơ chế ưu đãi về thuế và tín dụng như miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các hợp tác xã đầu tư vào chuyển đổi số, hoặc hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay phục vụ đầu tư hạ tầng công nghệ, thiết bị số và phần mềm quản lý. Thành phố cũng cần xây dựng quỹ hỗ trợ chuyển đổi số trong nông nghiệp, trong đó hợp tác xã là đối tượng ưu tiên tiếp cận. Vì vậy, việc thiết lập một khung chính sách thực tiễn, cụ thể và phù hợp với điều kiện địa phương sẽ tạo nền tảng pháp lý và nguồn lực cần thiết để các hợp tác xã nông nghiệp tại Cần Thơ mạnh dạn thực hiện chuyển đổi số, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động, phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế số quốc gia.

Thứ hai,đẩy mạnh công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý hợp tác xã nông nghiệp và xã viên về vai trò, lợi ích cũng như yêu cầu của chuyển đổi số là một giải pháp có tính nền tảng, quyết định đến sự thành công của quá trình chuyển đổi số trong khu vực kinh tế tập thể. Trong thực tế, nhiều hợp tác xã còn tâm lý e ngại, chưa hiểu rõ về khái niệm chuyển đổi số, cho rằng đây là lĩnh vực xa vời hoặc chỉ phù hợp với các doanh nghiệp lớn. Vì vậy, cần tổ chức các chương trình truyền thông sâu rộng, đa dạng hình thức như hội thảo, tọa đàm, tập huấn, video minh họa thực tiễn… nhằm giúp cán bộ quản lý hợp tác xã nông nghiệp và xã viên nhận thức rõ rằng chuyển đổi số không chỉ là xu thế tất yếu mà còn là cơ hội để nâng cao hiệu quả sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ và gia tăng giá trị nông sản. Bên cạnh đó, cần nhấn mạnh rằng chuyển đổi số không nhất thiết phải là những công nghệ phức tạp mà có thể bắt đầu từ những thay đổi nhỏ như sử dụng điện thoại thông minh trong ghi chép sản lượng, bán hàng online, truy xuất nguồn gốc. Khi có nhận thức đúng đắn, hợp tác xã sẽ chủ động và tích cực hơn trong việc tham gia vào quá trình chuyển đổi số.

Thứ ba, chú trọng phát triển nguồn nhân lực số là yếu tố then chốt để bảo đảm quá trình chuyển đổi số trong các hợp tác xã nông nghiệp diễn ra hiệu quả và bền vững. Hiện nay, phần lớn cán bộ quản lý và xã viên hợp tác xã còn hạn chế về trình độ công nghệ, chưa quen với việc ứng dụng phần mềm quản lý, nền tảng số hay công nghệ phân tích dữ liệu trong sản xuất và kinh doanh nông nghiệp. Do đó, cần triển khai các chương trình đào tạo, tập huấn chuyên sâu nhằm nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ chủ chốt và các thành viên. Nội dung đào tạo cần thiết thực, tập trung vào kỹ năng sử dụng thiết bị thông minh trong sản xuất (như cảm biến, máy bay không người lái), phần mềm quản lý chuỗi cung ứng, truy xuất nguồn gốc, bán hàng qua sàn thương mại điện tử và kỹ năng phân tích dữ liệu từ sản xuất để ra quyết định tối ưu. Bên cạnh đó, cần xây dựng đội ngũ chuyên gia, cộng tác viên số tại cơ sở để hỗ trợ trực tiếp hợp tác xã nông nghiệp trong quá trình triển khai ứng dụng công nghệ. Việc phát triển nguồn nhân lực số không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã mà còn tạo nền tảng cho sự đổi mới sáng tạo và phát triển nông nghiệp số một cách toàn diện.

Thứ tư,đầu tư xây dựng và nâng cấp hạ tầng số tại khu vực nông thôn là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực hợp tác xã nông nghiệp. Hiện nay, một vài địa phương ở vùng nông thôncủa thành phố Cần Thơ vẫn còn hạn chế về hệ thống kết nối internet, gây khó khăn cho việc ứng dụng công nghệ số vào sản xuất, quản lý và tiêu thụ nông sản. Do đó, cần ưu tiên triển khai các dự án phát triển hạ tầng viễn thông, bảo đảm mạng internet tốc độ cao phủ khắp các vùng nông thôn, đặc biệt tại các vùng sản xuất tập trung và khu vực có nhiều hợp tác xã hoạt động. Đồng thời, cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ sản xuất nông nghiệp, bao gồm dữ liệu về giống cây trồng, vật nuôi, mùa vụ, thời tiết, giá cả thị trường… để hỗ trợ hợp tác xã đưa ra quyết định chính xác và kịp thời. Ngoài ra, việc phát triển các nền tảng số chuyên biệt cho nông nghiệp như hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm, sàn thương mại điện tử, ứng dụng kết nối nông dân – doanh nghiệp – người tiêu dùng cũng cần được chú trọng. Hạ tầng số đầy đủ và đồng bộ sẽ tạo nền tảng quan trọng để hợp tác xã nông nghiệp tiếp cận hiệu quả với các công cụ chuyển đổi số, nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Thứ năm,để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp, việc tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã nông nghiệp với doanh nghiệp công nghệ, viện nghiên cứu và các tổ chức hỗ trợ là yêu cầu cấp thiết. Mối liên kết này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ tiên tiến vào sản xuất mà còn thúc đẩy chia sẻ dữ liệu, tri thức và kinh nghiệm giữa các bên liên quan. Thông qua hợp tác, các hợp tác xã có thể tiếp cận các giải pháp số như quản lý chuỗi cung ứng, truy xuất nguồn gốc, dự báo thời tiết nông nghiệp, cũng như các công cụ phân tích dữ liệu lớn nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và quản lý. Đồng thời, các doanh nghiệp công nghệ và viện nghiên cứu cũng có điều kiện thử nghiệm, điều chỉnh và hoàn thiện sản phẩm phù hợp với thực tiễn sản xuất nông nghiệp. Việc xây dựng một hệ sinh thái số nông nghiệp bền vững trên cơ sở liên kết đa chiều sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành, thúc đẩy phát triển nông nghiệp thông minh và bền vững trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Tập 1),NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

3. Liên minh hợp tác xã Thành phố Cần Thơ (2024), Báo cáo tình hình kinh tế tập thể và hoạt động của Liên minh hợp tác xã, Cần Thơ.

4. UBND thành phố Cần Thơ (2024), Kế hoạch số 76/KH-UBND ngày 8/4/2024 về chuyển đổi số năm 2024 trên địa bàn thành phố Cần Thơ, Cần Thơ.

 

ThS. Trần Văn Phụng - Giảng viên khoa Lý Luận cơ sở



[1]Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1,trang 61,62,NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[2]Liên minh hợp tác xã Thành phố Cần Thơ (2024), Báo cáo tình hình kinh tế tập thể và hoạt động của Liên minh hợp tác xã, Cần Thơ.

[3]Liên minh hợp tác xã Thành phố Cần Thơ (2024), Báo cáo tình hình kinh tế tập thể và hoạt động của Liên minh hợp tác xã, Cần Thơ.

[4]Liên minh hợp tác xã Thành phố Cần Thơ (2024), Báo cáo