Chính sách kinh tế nhiều thành phần trong tác phẩm “Thường thức chính trị” của Hồ Chí Minh và một số vấn đề cần quan tâm khi giảng bài ...
Tóm tắt: Bài viết phân tích quan điểm về chính sách kinh tế nhiều
thành phần trong tác phẩm “Thường thức chính trị” của Hồ Chí Minh, thấy được sự
sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc vận dụng
chính sách kinh tế nhiều thành phần của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng Việt Nam. Qua đó lưu ý
một số vấn đề cần quan tâm khi giảng bài “Đặc điểm kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội” trong chương trình trung cấp lý luận chính trị tại trường
chính trị. Từ khóa: Kinh
tế nhiều thành phần, thường thức chính trị, đặc điểm kinh tế cơ bản của thời kỳ
quá độ 1. Đặt vấn đề Tác phẩm “Thường thức chính trị” tập hợp 50 bài viết của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, ký bút danh Đ.X., đăng trong chuyên mục Thường thức chính trị, báo Cứu
quốc từ số 2253, ngày 16/01 (bài 1 “Giai cấp là gì”?) đến số 2430, ngày 23/9/1953
(bài 50 “Kết luận”). Năm 1954, các bài viết này được Nhà xuất bản Sự thật tập
hợp lại và xuất bản thành cuốn sách Thường
thức chính trị. Với 50 bài viết ngắn gọn chưa tới 50 trang sách nhưng tác
phẩm “Thường thức Chính trị” đã góp phần cung cấp những tri thức phổ thông quan
trọng về chính trị cho đảng viên và nhân dân ta, góp phần đáp ứng nhiệm vụ cách
mạng lúc bấy giờ. Đồng thời, tác phẩm cũng là tài liệu bổ ích cho giảng viên
các trường chính trị nghiên cứu, bổ sung làm phong phú bài giảng. Quan
điểm về chính sách kinh tế nhiều thành phần được Hồ Chí Minh đề cập trong 05
bài viết cuối khi bàn đến chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản và các thành phần
kinh tế của chế độ dân chủ mới. Việc nghiên cứu chính sách kinh tế nhiều thành
phần qua tác phẩm “Thường thức chính trị” của Hồ Chí Minh có ý nghĩa vận dụng
lý luận căn cốt trong việc phân tích tính tất yếu tồn tại nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi
mới, trong quá trình giảng bài “Đặc điểm kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội” thuộc chương trình trung cấp lý luận chính trị tại các trường
chính trị. 2. Nội dung 2.1. Quan điểm chính
sách kinh tế nhiều thành phần qua tác phẩm “Thường thức chính trị” của Hồ Chí
Minh Trên cơ sở nhận thức về mối quan hệ giữa tính quy luật chung
và tính đặc thù trong phát triển kinh tế của từng quốc gia - dân tộc, đồng thời
việc giải quyết các thành phần kinh tế tư nhân phải xuất phát từ yêu cầu và
trình độ xã hội hóa sản xuất, tùy thuộc vào khả năng tổ chức và quản lý của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh đã
vận dụng sáng tạo quan điểm của V.I.Lênin về đặc điểm cơ bản của nền kinh tế
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế nhiều thành phần vào hoàn cảnh cụ
thể của Việt Nam, phù hợp với đặc thù của từng giai đoạn cách mạng. Thứ nhất, quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh
tế ở vùng tự do giai đoạn 1945 - 1954 Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam đã bước sang
trang sử mới với những điều kiện nhất định để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó,
sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần là đặc điểm mới của nền kinh tế
Việt Nam. Tuy nhiên, đặc thù về hoàn cảnh lịch sử với trình độ phát triển kinh
tế thấp kém cùng với yêu cầu phải tiếp tục kháng chiến để hoàn thành nhiệm vụ
cách mạng dân tộc, một số nhiệm vụ của cách mạng dân chủ chưa thể tiến hành. Từ
kết quả nghiên cứu tổng kết lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn xây
dựng chủ nghĩa xã hội và điều kiện lịch sử đất nước, Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa
các thành phần kinh tế đại diện cho chế độ kinh tế mới ở các vùng tự do trong
kháng chiến thể hiện sự vận dụng khéo léo, sáng tạo và vô cùng đúng đắn của Hồ
Chí Minh. Cho nên, khác biệt với nền kinh tế nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười
năm 1917, Việt Nam vẫn còn thành phần kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô. Trong tác phẩm “Thường thức chính trị”, Hồ Chí Minh
đã chỉ ra những thành phần kinh tế trong vùng tự do trước năm 1954 ở
nước ta. Người viết: “Hiện nay, kinh tế nước ta có những thành phần như sau: -
Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô. - Kinh tế quốc doanh, có tính chất
chủ nghĩa xã hội. Vì tài sản các xí nghiệp ấy là của chung của nhân dân, của
Nhà nước, chứ không phải của riêng. Trong các xí nghiệp quốc doanh thì xưởng
trưởng, công trình sư và công nhân đều có quyền tham gia quản lý, đều là chủ
nhân. Việc sản xuất thì do sự lãnh đạo thống nhất của Chính phủ nhân dân. - Các
hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, có tính chất nửa chủ nghĩa xã hội.
Nhân dân góp nhau để mua những thứ mình cần dùng, hoặc để bán những thứ mình
sản xuất không phải kinh qua các người con buôn, không bị họ bóc lột. Các hội
đổi công ở nông thôn, cũng là một loại hợp tác xã. - Kinh tế cá nhân của nông
dân và của thủ công nghệ, họ thường tự túc, ít có gì bán và cũng ít khi mua gì.
Đó là một thứ kinh tế lạc hậu. - Kinh tế tư bản của tư nhân. Họ bóc lột công
nhân, nhưng đồng thời họ cũng góp phần vào xây dựng kinh tế. - Kinh tế tư bản
quốc gia là Nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh và do Nhà nước lãnh đạo.
Trong loại này, tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản. Tư bản của Nhà nước là
chủ nghĩa xã hội”
[4, tr.266]. Đối với chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ, Hồ Chí
Minh nhấn mạnh “Gồm có mấy điều: 1- Công tư đều lợi. Kinh tế quốc doanh là
công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới ... 2- Chủ thợ đều
lợi. Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng Chính phủ ngăn cấm họ bóc lột
công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ lợi quyền của công nhân ... 3- Công
nông giúp nhau. Công nhân ra sức sản xuất nông cụ và các thứ cần dùng khác, để
cung cấp cho nông dân. Nông dân thì ra sức tăng gia sản xuất, để cung cấp lương
thực và các thứ nguyên liệu cho công nhân. Do đó mà càng thắt chặt liên minh
giữa công nông. 4- Lưu thông trong ngoài… Các nước bạn mua những thứ ta đưa ra
và bán cho ta những hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó là chính sách mậu dịch,
giúp đỡ lẫn nhau rất có lợi cho kinh tế ta. Bốn chính sách ấy là mấu chốt để
phát triển kinh tế của nước ta” [4, tr.267]. Như vậy, ngay trong điều kiện kháng chiến, Hồ Chí
Minh đã thấy được tính tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta, đảm bảo đúng quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thủ công lạc hậu, manh
mún hiện có. Phát triển kinh tế lúc đó vừa để kiến thiết đất nước,
vừa là để kịp thời phục vụ cho cuộc kháng chiến lâu dài gian khổ
của nhân dân. Việc nhận diện cơ cấu
cụ thể của nền kinh tế nhiều thành phần không những dựa vào tính quy luật
chung, mà còn dựa vào hoàn cảnh đặc thù trong hoàn cảnh đặc thù. Điều đó đã
giúp cho Hồ Chí Minh nhận thức rõ vị trí, vi trò của từng thành phần kinh tế
trong tăng gia sản xuất, tạo căn cứ khoa học cho hoạch định chính sách kinh tế
đúng đắn, góp phần quan trọng đảm bảo kháng chiến thắng lợi. Thứ hai, quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ
cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân chủ mới ở miền Bắc Việt Nam sau năm
1954 Trong tác “Thường thức chính trị”, khi bàn đến chế độ “Dân
chủ mới” (ở bài số 48), Hồ Chí Minh khẳng định con đường đến chủ nghĩa cộng sản
bắt đầu “Từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến
chế độ tư bản, đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - nói chung thì loài người phát
triển theo quy luật nhất định như vậy. Nhưng tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát
triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng
sản) như Liên Xô. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên
chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta,
v.v..” [4,
tr.293]. Đối với Việt Nam, theo Hồ Chí Minh,
để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần phải trải qua giai đoạn chế độ dân chủ
mới, vì “… đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa” [5, tr.411]. Khi bàn đến đặc điểm kinh tế - 01
trong 05 “đặc điểm của dân chủ mới là gì?”, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trong chế độ
dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau: A- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ
nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân). B- Các hợp tác xã (nó là nửa
chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội). C- Kinh tế của cá nhân,
nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa
xã hội). D- Tư bản của tư nhân. E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn
với tư bản tư nhân để kinh doanh)”. Theo Hồ Chí Minh “Trong năm loại ấy, loại A
là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển
theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản” [4, tr.293-294]. Khác với thời kỳ kháng chiến, trong chế độ dân chủ mới, giai
cấp địa chủ phong kiến sẽ ngày càng bị thu hẹp và không còn thành phần
kinh tế địa chủ phong kiến, do thực hiện cải cách ruộng đất đã thủ tiêu chế độ
sở hữu phong kiến về ruộng đất và nông dân đã trở thành người cày có ruộng, chủ
sở hữu ruộng đất. Đồng thời, các thành phần kinh tế còn lại cũng có những thay
đổi về vị trí và vai trò trong nền kinh tế. Kinh
tế hợp tác xã không những trở nên phổ biến, vững chắc hơn, mà còn mở rộng
phạm vi kinh doanh. Xu hướng phát triển kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công
nghệ theo hướng chủ nghĩa xã hội đã hình thành rõ nét. Kinh tế tư bản tư nhân đã hoạt động trong điều kiện mới, việc bóc lột
đã được điều tiết và giới hạn. Kinh tế
quốc doanh đã có phát triển mới, từ chỗ có tính chất chủ nghĩa xã hội, đã
trở thành thành phần kinh tế thực sự đại diện cho chủ nghĩa xã hội, của chủ
nghĩa xã hội, có vai trò “lãnh đạo” trong nền kinh tế và đảm bảo định hướng xã
hội chủ nghĩa phát triển kinh tế. Như vậy, Hồ Chí Minh không những kiên trì bảo vệ mà còn bổ
sung, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về đặc điểm kinh tế thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với tư cách bộ phận cấu thành quan trọng nền
tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh mới và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phù hợp với đặc thù lịch sử, kinh tế,
chính trị, xã hội của từng giai đoạn cách mạng. 2.2. Một số vấn
đề cần quan tâm khi giảng bài “Đặc điểm kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội” thuộc chương trình trung cấp lý luận chính trị tại trường
chính trị Trong quá trình giảng bài “Đặc điểm kinh tế cơ bản của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” thuộc chương trình trung cấp lý luận chính trị
tại trường chính trị, cần quan tâm một số vấn đề sau: Thứ nhất, khẳng định việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở
Việt Nam là nhằm giải phóng sức sản xuất, khơi dậy tiềm năng của đất nước, được
xem là sự sáng tạo, là một trong những nhân tố đột phá trong công cuộc đổi mới
ở nước ta. Vấn đề này trong lịch sử cách mạng đã được Hồ Chí Minh vận dụng sáng
tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về đặc điểm kinh tế thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội vào điều kiện cụ thể của đất nước và đã được khẳng định, đề
cập rất cụ thể trong tác phẩm “Thường thức chính trị”. Thứ hai, sử dụng quan điểm kinh tế nhiều thành phần trong tác phẩm
“Thường thức chính trị” của Hồ Chí Minh vào phân tích sự vận dụng của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong việc
kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Chỉ ra việc Đảng ta đã vận dụng sáng tạo và hoàn cảnh Việt
Nam trên cơ sở phân tích đặc điểm của từng bước quá độ, từng điều kiện, hoàn
cảnh lịch sử cụ thể. Từ đó, từng Đại hội của Đảng trong thời kỳ đổi mới không
những nhất quán thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần mà còn xác định
rõ cơ cấu các thành phần kinh tế, tạo cơ sở cho hoạch định và thực thi đúng
đắn, các chính sách đối với các thành phần kinh tế. Thứ ba, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về “nhiệm vụ quan trọng nhất
của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội” [5, tr.412]. Khẳng định “Sản xuất hàng hóa không đối lập với
chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn
tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ
nghĩa xã hội đã được xây dựng” [2, tr.348]. Đồng thời, phân tích rõ
sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam về chính sách kinh tế nhiều thành phần
trong quá trình đổi mới.
Trên cơ sở quán triệt tinh thần của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tổng kết thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta trước thời kỳ đổi mới. Phân tích nhận thức của Đảng ta tại Đại hội VI đã khẳng định
rõ tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần. Đại hội
đề ra đường lối đổi mới, thẳng thắng chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, chủ
quan, duy ý chí của Đảng trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và các thành phần kinh
tế, nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa,
nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh, tổ chức ngay các hợp
tác xã có quy mô lớn; thực hiện cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp. Khẳng
định việc Đại hội VI đã chỉ ra rằng: “Xuất phát từ sự đánh giá những tiềm năng
tuy phân tán nhưng rất quan trọng trong nhân dân, cả về sức lao động, kỹ thuật,
tiền vốn, khả năng tạo việc làm, chúng ta chủ trương: đi đôi với việc phát
triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích lũy tập trung
của Nhà nước và tranh thủ vốn ngoài nước, cần có chính sách sử dụng và cải tạo
đúng đắn các thành phần kinh tế khác” [1, tr.56]. Qua việc phân tích đặc điểm về các thành phần kinh tế qua
các kỳ đại hội của Đảng từ giai đoạn đổi mới tại Đại hội VI (1986) đến nay để
thấy được tính tất yếu khách quan tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Qua đó nhấn mạnh nhận thức của Đảng ta
trong từng giai đoạn cụ thể gắn với bối cảnh, tình hình cụ thể đất nước trong
mỗi giai đoạn lịch sử cách mạng cụ thể, đặc biệt là quan điểm tại Đại hội XIII
xác định: “Nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh
té tập thể không ngừng được củng cố, phát triển, kinh tế tư nhân là một động
lực quan trọng của nền kinh tế” [3, tr.128-129]. Đồng thời, phân tích những giải pháp thiết thực góp phần
phát huy có hiệu quả các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng. Thứ tư, lồng ghép nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản
bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc tạc, bác bỏ định hướng xã hội
chủ nghĩa của Việt Nam. Cần có những luận cứ phản bác, bác bỏ những lập luận
của nhóm này cho rằng phát triển kinh tế thị trường trong nền kinh tế nhiều
thành phần thì sẽ không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ trương gắn kinh tế
thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa là không có cơ sở, bởi chúng đối lập
nhau như nước với lửa, không thể dung hòa. Cần khẳng định kinh tế thị trường là
sản phẩm của nhân loại, được hình thành, phát triển gắn liền với quá trình xã
hội hóa sản xuất, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại. 3. Kết vấn đề Tác phẩm “Thường thức chính trị” đã
cung cấp những kiến thức cơ bản, cần thiết về chủ nghĩa Mác - Lênin và đường
lối, chính sách của Đảng nhằm xây dựng lý tưởng và niềm tin để cán bộ và nhân
dân vượt qua gian khổ, hy sinh đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Tác phẩm đã trình bày quan điểm về các thành phần kinh tế trong chế độ dân chủ
nhân dân ở nước ta. Qua đó cho thấy rõ đặc điểm kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam phù hợp với đặc thù lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội
của từng giai đoạn cách mạng. Chính sách kinh tế nhiều thành phần
trong Tác phẩm “Thường thức chính trị” có giá trị lý luận và thực tiễn cao. Trong
khuôn khổ bài viết này, tác giả đã đề cập đến 05 vấn đề cần quan tâm nghiên cứu
đối với giảng viên tại các trường chính trị khi giảng bài “Đặc điểm kinh tế cơ
bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” thuộc chương trình trung cấp lý
luận chính trị. Mặt khác, qua phân tích thấy rõ sự vận dụng của Đảng cộng sản
Việt Nam về chính sách kinh tế nhiều thành phần trong công cuộc đổi mới. ----- Tài
liệu tham khảo 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987): Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.Sự thật, Hà Nội 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013): Văn
kiện đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X,
XI), Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn
kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. Hồ Chí Minh (2011):
Toàn tập, phiên bản điện tử, Nxb.
Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 8. 5. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, phiên bản điện tử, Nxb.Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 12. |