Bài học về công tác “Huấn luyện cán bộ” và việc nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của trường Chính trị hiện nay
Tóm tắt: Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” tuy nội dung ngắn nhưng mỗi
từ, mỗi câu đều chứa đựng tâm huyết của Bác trong việc cho việc bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, đảng viên. Nghiên cứu khía cạnh
“huấn luyện cán bộ”trong tác phẩm sẽ mang ý nghĩa thiết thực đối với đội ngũ
giảng viên làm công tác giảng dạy tại trường Chính trị trong thực hiện nhiệm vụ đổi mới nội dung chương trình,
phương pháp giảng dạy thích hợp, nâng chất hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, đáp ứng yêu
cầu hội nhập, phát triển và thực hiện thành công “khát vọng hạnh phúc” của Nhân
dân Việt Nam. 1. Mở đầu Quan điểm chỉ đạo xuyên
suốt của Đảng đều khẳng định vai trò đội ngũ cán bộ: “Là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế
độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”[4, tr.63]. Bởi lẽ, “Không
ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta…
Nếu chúng ta do sai lầm mà gây ra sự chia rẽ thì tất cả sẽ sụp đổ”[8, tr.311]. Trong
bài viết này tác giả đi sâu phân tích một nội
dung “huấn luyện cán bộ” của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” để góp phần khẳng định vị trí, vai trò cũng như chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ giảng viên trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, từ đó góp
phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao để thực hiện mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương cũng như của cả nước. 2. NỘI DUNG 2.1. Một số nội dung cơ bản về “Huấn luyện cán bộ” trong tác
phẩm “Sửa đổi lối làm việc” Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền và
thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc. Tình hình đất nước và
công tác xây dựng Đảng lúc này có nhiều điểm mới, đặt ra nhiều yêu cầu mới. Chính
bối cảnh đó, để có tài liệu cho cán bộ, đảng viên học tập, rèn luyện, tu dưỡng
trên các mặt tư tưởng, đạo đức và phương pháp làm việc, Hồ Chí Minh với bút
danh X.Y.Z đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” và được hoàn thành vào tháng
10 năm 1947. Tác phẩm gồm 6 nội dung: phần 1: Phê bình và sửa chữa; phần 2: Mấy điều kinh
nghiệm; phần III. Tư cách và đạo đức cách mạng; phần IV. Vấn đề cán
bộ; phần V. Cách lãnh đạo; phần VI. Chống thói ba hoa.
Theo Hồ Chí Minh: Cán bộ là gốc của mọi công việc, là dây chuyền
của bộ máy; vấn đề cán bộ quyết định tất cả. Do vậy, để có đội ngũ cán bộ vừa
hồng, vừa chuyên thì ngoài việc tự rèn luyện, tu dưỡng của bản thân thì phải
đặc biệt chú trọng đến công tác huấn luyện cán bộ và Người đã xác định huấn
luyện cán bộ là công việc của Đảng. Công tác huấn luyện cán bộ
có nội hàm rất rộng, từ việc xác định mục đích của huấn luyện; nội dung huấn
luyện; phương pháp huấn luyện, hình thức huấn luyện đến phương châm huấn luyện.
Yêu cầu cao là vậy nhưng Bác cũng đã chỉ ra những khuyết điểm lớn nhất trong sự huấn luyện chẳng hạn
như: huấn luyện cán bộ trong công tác hành chính nhưng không đụng đến công việc
hành chính; còn dạy chính trị thì mênh mông mà không thiết thực, học rồi không
dùng được. Do vậy, khi huấn luyện cán bộ phải phân ra đối tượng người học để
tập trung vào nội dung chương trình, lựa chọn cán bộ huấn luyện cho phù hợp.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Bác đã
hướng dẫn rất cặn kẽ những vấn đề cần
lưu tâm khi huấn luyện nghề nghiệp, huấn luyện chính trị, huấn luyện văn hóa
hay huấn luyện lý luận: (i) Đối với huấn luyện nghề nghiệp. Khi huấn luyện phải thực
hành khẩu hiệu “làm việc gì học việc ấy”. Bác cho rằng không phải ai cũng huấn
luyện được. Người huấn luyện trước hết phải nắm
vững nội dung, phương pháp, biết cái gốc, cái chính; biết những tài liệu cần
thiết giúp cho người học đạt hiệu quả. Do đó, những người lãnh đạo và người phụ
trách kế hoạch dạy cho cán bộ: Một là, phải điều tra: tình hình có quan hệ công tác của mình. Chẳng hạn: môn quân
sự thì điều tra, phân tách, nghiên cứu rõ ràng tình hình của địch, của bạn, của
ta, chọn điểm chính làm tài liệu huấn luyện cho cán bộ. Hai là, phải nghiên cứu. những chính sách, chỉ thị, nghị quyết. Chẳng hạn: Cán bộ môn
tài chính phải hiểu rõ chính sách tài chính và những nghị quyết về tài chính
của Chính phủ. Ba là, phải đúc kết kinh nghiệm. Khi tuyên truyền thì gom góp tất cả những kinh nghiệm thành
công hoặc thất bại trong công việc tuyên truyền, chép thành tài liệu huấn
luyện, cho cán bộ tuyên truyền học. Bốn là, phải nghiên cứu khoa học. đối với
cán bộ trong lĩnh vực nào thì phải nghiên cứu trong lĩnh vực đó. Chẳng hạn, cán
bộ quân sự thì phải nghiên cứu khoa học quân sự, cán bộ y tế thì phải nghiên
cứu y học, cán bộ môn nào thì phải nghiên cứu lý luận môn đó. (ii) Đối với huấn luyện chính trị. Khi huấn luyện thời sự
phải khuyến khích cán bộ xem báo, thảo luận và giải thích những vấn đề quan
trọng và định kỳ khai hội cán bộ, báo cáo thời sự. Khi huấn luyện chính sách
thì phải thúc đốc cán bộ nghiên cứu và thảo luận những nghị quyết, chương
trình, tuyên ngôn của Đảng, của Chính phủ. (iii) Đối với huấn luyện văn hóa. Căn cứ vào trình độ văn
hóa cao hay thấp của cán bộ mà xếp lớp học cho phù hợp. Dạy kiến thức từ lịch
sử, địa dư, làm tính, khoa học tự nhiên, xã hội, cách viết báo cáo, nghĩa vụ và
quyền lợi của công dân. (iv) Đối với huấn luyện lý luận. Người nhắc nhở nếu huấn luyện
lý luận mà “chỉ đem lý luận khô khan nhét cho đầy óc họ. Rồi bày cho họ viết
những chương trình, những hiệu triệu rất kêu. Nhưng đối với việc thực tế, tuyên
truyền, vận động, tổ chức, kinh nghiệm chỉ nói qua loa mà thôi. Thế là lý luận suông, vô ích”
thì đây chính là cách giảng dạy, học tập lý luận theo kiểu nhồi sọ, thụ động
không có sáng tạo, không có phản biện và không biết liên hệ với thực tế. Lý
luận chỉ biểu hiện ra như là tổng số những công thức cứng đờ, máy móc, đơn
điệu, phiến diện khiến cho lý luận không có sức sống, thoát ly thực tế, xa rời
thực tiễn. Chính vì vậy, trong lúc học lý luận, phải nghiên cứu công việc thực
tế, kinh nghiệm thực tế. Lúc học rồi, họ có thể tự mình tìm ra phương hướng
chính trị, có thể làm những công việc thực tế, có thể trở nên người tổ chức và
lãnh đạo. Đây là “lý luận
thiết thực, có ích”. Điểm xuất phát của lý luận là thực tiễn. Tính
chuẩn xác và hiện thực của lý luận đòi hỏi phải gắn liền lý luận với thực tiễn;
lý luận phải ở trong thực tiễn và thường xuyên xuất phát từ nhu cầu nhận thức
và cải tạo thực tiễn. Tóm lại, trong huấn luyện
cán bộ, Bác đã phân ra từng đặc điểm lớp học để người huấn luyện có phương pháp
huấn luyện phù hợp nhất. Nhưng có thể thấy một điểm chung là trong phương pháp
huấn luyện cán bộ: lý thuyết phải gắn với thực tiễn cuộc sống, huấn luyện làm
sao mà người học có thể áp dụng được trong thực tiễn, phải nghiên cứu đúc kết
những kinh nghiệm trong quá khứ một cách khoa học, logic để từ đó truyền đạt,
giải thích một cách cặn kẽ, thấu đáo và mang tính thuyết phục nhất để người học
vận dụng những tri thức được học vào thực tiễn cuộc sống. Do vậy, Bác đặt ra
yêu cầu các cơ quan cần phải rất chú ý đến việc
huấn luyện cán bộ. Phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ trách việc
huấn luyện đó. Bởi vì, người cán bộ
huấn luyện không chỉ truyền đạt, giải thích nội dung chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho dân chúng mà quan trọng hơn là
trong quá trình tổ chức thực hiện, họ phải nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân, thu nhận được những kinh nghiệm thực tiễn để phản ánh với Đảng và Nhà
nước hoàn thiện đường lối, chính sách ngày càng phù hợp với đòi hỏi khách quan
của cuộc sống. 2.2. Chủ trương của Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thời gian qua Quan điểm
chỉ đạo xuyên suốt của Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kể từ khi chủ
trương đổi mới đất nước, điển hình như tại Đại hội VI (tháng 12-1986) đã xác
định: “Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải tuân theo một quy trình chặt chẽ.
Đó là kết hợp giữa bồi dưỡng kiến thức ở các trường học với rèn luyện trong thực
tiễn vì nhân tài không phải là sản phẩm tự phát, mà phải được phát hiện và bồi
dưỡng công phu”[4, tr.134]. Đến Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng ta
chủ trương cần phải đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học. Đầu tư thích đáng
cho việc đào tạo cán bộ đảng… Tiếp đến Nghị quyết số
26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa
XII đã nhấn mạnh: “Bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ mọi mặt; bồi dưỡng
toàn diện về kỹ năng; định kỳ cập nhật kiến thức mới theo từng nhóm đối tượng”[2].
Đặc biệt, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đặt
ra các yêu cầu hoàn thiện năng lực đối với đội ngũ cán bộ các cấp đến năm 2030,
trong đó, có yêu cầu đối với xây dựng đội ngũ cán bộ có khả năng làm việc trong
môi trường quốc tế. Để xây dựng được đội ngũ này, bên cạnh công tác tuyển dụng,
thu hút nhân lực thì công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức có đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế là một yếu tố đóng
vai trò then chốt. Bên cạnh
mặt đạt được thời gian qua, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII cũng
chỉ ra những hạn chế tồn tại ở nhiệm kỳ Đại hội XII về đào tạo, bồi dưỡng: “Chất
lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận chưa cao… Công tác tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới”[5]. Đồng thời đặt ra yêu cầu: “Đẩy mạnh tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi
mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Gắn
kết tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với định hướng chính sách”[5]. Đặc biệt, trong bối cảnh
hội nhập ngày càng sâu rộng nền kinh tế quốc tế dưới tác động của nền công
nghiệp 4.0 thì tiêu chuẩn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống
nhà nước cần phải chuẩn hóa hơn về trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và trình độ
lý luận chính trị. 2.3. Vận dụng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác huấn
luyện cán bộ trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ,
công chức hiện nay Để
đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao trong hệ thống chính trị, trường
Chính trị cần tập trung vào[6]: Một là, nội dung đào tạo phải gắn với vị trí công tác để sau khi được đào
tạo đội ngũ cán bộ, công chức có sự chuyển mình về năng lực. Hai là, nội dung bồi dưỡng phải thiết thực, phù hợp với thực tiễn để sau
khi được đào tạo, bồi dưỡng sẽ có kỹ năng thực thi thực hiện tốt nhiệm vụ được
đảm nhận. Ba là, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng phải trực quan, sinh động, phải
thiết thực. Đặc biệt là phải khơi gợi được ý thức trách nhiệm, đạo đức công vụ,
đạo đức nghề nghiệp để sau khi tốt nghiệp có khả năng làm việc trong môi trường
quốc tế. Để đạt được mục tiêu và
yêu cầu vừa nêu thì cần sự vào cuộc cả hệ thống chính trị, cụ thể: Thứ nhất, khẳng định vai trò
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong việc vạch định đường lối chiến lược và tầm
nhìn dài hạn đối với nguồn nhân lực quốc gia trong các giai đoạn tiếp theo, phù
hợp với xu hướng phát triển chung của các quốc gia trên thế giới. Thứ hai, khẳng định vai trò của Nhà nước trong
việc ban hành chiến lược, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực cao trong tất cả
các ngành, các lĩnh vực. Việc ban hành chiến lược, quy hoạch phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao cần phải dựa trên thực tiễn nguồn nhân lực hiện
có ở từng địa phương và dự báo nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực trong giai đoạn
tới của địa phương, của cả nước và các quốc gia trên thế giới. Thứ ba, về phía
giảng viên: Một là, giảng
viên đóng vai trò rất quan trọng trong việc truyền ngọn lửa nhiệt huyết đến học
viên. Giảng viên cần “thổi hồn” vào bài giảng của mình nhằm tạo ấn tượng bằng
những bài tập tình huống, những chủ đề mang tính thời sự - xã hội để khuyến
khích học viên trình bày quan điểm của mình; từ đó, giảng viên sẽ nắm được khả
năng tiếp thu của học viên và điều chỉnh giáo án cho phù hợp. Hai là, phương pháp giảng dạy của
giảng viên cần kết hợp theo một vòng tròn khép kín gồm năm (05) giai đoạn lần
lượt theo thứ tự sau[7]: (i) phân tích nhu cầu của người học; (ii) thiết kế nội
dung bài giảng: lồng ghép kiến thức thực tiễn vào từng đối tượng cụ thể, thiết
kế giáo án kết hợp với thiết bị nghe – nhìn; (iii) phát triển nguồn tài liệu:
trên nền tảng đơn vị bài trong giáo trình, giảng viên còn giới thiệu những
nguồn tài liệu chính thống khác có thể tham khảo như thư viện, thư viện số, trang
website…; (iv) giảng dạy: học viên là trung tâm, giảng viên đóng vai trò điều
hành, truyền cảm hứng, đánh giá năng lực và thái độ của học viên; (v) đánh giá
sau giảng dạy. Ba là, giảng viên phải xem nhiệm vụ nghiên cứu khoa học là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm nhằm góp phần cải tiến và nâng cao chất lượng giảng
dạy. Giảng viên phải viết các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học có mã số
chuyên ngành, các chuyên đề, báo cáo khoa học tham luận tại các hội nghị, hội
thảo khoa học. Hàng năm giảng viên cũng phải xuống đi nghiên cứu thực tế ở cở
sở theo quy định để bổ sung kiến thực thực tiễn vào nội dung bài giảng. Làm cho
bài giảng sinh động hơn, thiết thực hơn. Đây là cách tốt nhất để đối chiếu giữa
lý luận và thực tiễn. Bốn là, giảng viên cần thường xuyên học tập, bồi dưỡng
nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước, ngoại ngữ,
tin học, phương pháp giảng dạy để đáp ứng yêu cầu đổi mới và nâng cao chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng. 3. Kết luận Những
chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác huấn luyện trong tác phẩm “Sửa đổi
lối làm việc” có giá trị thực tiễn vô cùng sâu sắc, đây chính là điều kiện đặc
biệt quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
được giao để thực hiện sứ mệnh huấn luyện của mình. Do vậy, giảng viên trường Chính trị tự soi rọi bản thân về
kiến thức khoa học, kiến thức thực tế, nghiên cứu khoa học, phương pháp giảng
dạy để làm thế nào để truyền thụ một cách tốt nhất cả về lý luận lẫn thực tiễn,
giúp người học sau khi học thì có thể vận dụng sáng tạo, hiệu quả các kiến
thức, kinh nghiệm đã được học trong công việc được giao./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ
Chính trị, Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26/5/2014 về tiếp
tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
cho cán bộ lãnh đạo, quản lý.
2. Bộ Chính trị, Báo
cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. 3. Chính
phủ (2021), Nghị định số 89/2021/NĐ-CP ngày 18/10/2021 của Chính phủ sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính
phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội. 5. Đảng Cộng
sản Việt Nam (2021), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự
Thật, Hà Nội.
6. Thủ tướng Chính phủ, Quyết
định số 163/QĐ-TTg ngày 25/01/2016 phê duyệt Đề án ĐTBD cán bộ, công chức, viên
chức giai đoạn 2016-2025. 7. Tony Pont. Developing Effective
Training Skills, McGraw-Hill Book Company, London. 8. V.I. Lê-nin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va,
1977, tập 42. ThS. Nguyễn Thị Kim Nhung
- Giảng viên khoa Nhà nước và pháp luật |