An ninh nguồn nước - Vấn đề sống còn với sự phát triển của vùng đồng bằng sông Cửu Long
Tóm tắt Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng sản xuất nông nghiệp
lớn nhất của nước ta, có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân, nhất
là trong việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. ĐBSCL có nguồn tài nguyên nước dồi
dào, chất lượng nguồn nước ngầm và nước mặt được cho là tương đối tốt nhưng lại
phụ thuộc phần lớn vào các nguồn bên ngoài. Tuy nhiên, biến
đổi khí hậu, hiện
tượng ô nhiễm cục bộ, việc khai thác nguồn nước ngày càng gia tăng, đe dọa đến an ninh nguồn
nước của vùng. Để ứng phó với các tác động tiêu cực nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước
phục vụ cho cho sự phát triển và đời sống người dân, cần nghiên cứu và triển khai nhiều giải
pháp trong thời gian tới. Bài viết đề xuất một số giải pháp góp phần đảm bảo an ninh nguồn
nước giúp cho ĐBSCL ổn định, phát triển. Từ khóa: Biến đổi khí hậu; đồng bằng sông Cửu Long; an ninh nguồn
nước; phát triển. Những năm gần
đây, vấn đề an ninh nguồn nước ở ĐBSCL đang được quan tâm đặc biệt. Sự thay đổi mạnh mẽ chế độ mưa
hằng năm, gia tăng triều cường vùng cửa sông, ven biển và cả nhiệt độ đã khiến ĐBSCL thiếu hụt nguồn nước mặt, sụt giảm
lượng nước ngầm và tăng diện tích mặn hóa. Quan ngại hơn, sự phát triển ồ ạt và
thiếu bền vững của hàng loạt đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong đã khiến
vấn đề an ninh nguồn nước ở ĐBSCL càng trở nên bức bách. Từ vùng nông
nghiệp trù phú bậc nhất thế giới định hình bởi nguồn tài nguyên nước phong phú,
ĐBSCL đang đứng trước nguy cơ mất an ninh lương thực và khó đạt các mục tiêu
phát triển bền vững do nguồn nước bị suy giảm cả về lượng lẫn chất. Điều này đặt ra những thách thức cần các biện pháp giải quyết kịp thời
để đảm bảo nguồn nước cho sinh hoạt và sản xuất tại vùng đồng bằng lớn nhất Việt
Nam. 2. Nội
dung 2.1.
Thực trạng nguồn nước của Đồng bằng sông Cửu Long Theo Ủy ban về nước của Liên Hiệp Quốc (UN-Water),
an ninh nguồn nước là khả năng tiếp cận được nguồn nước của một cộng
đồng dân cư mà còn đảm bảo đủ nguồn nước với chất lượng cần thiết cho phép duy
trì sinh kế, phục vụ nhu cầu cá nhân, phát triển kinh tế và bảo tồn các hệ sinh
thái; có liên
hệ mật thiết đến nhiều khía cạnh xã hội, từ nhân quyền (quyền được đảm bảo các
nhu cầu tối thiểu để duy trì cuộc sống và sự thịnh vượng của con người), sản
xuất lương thực – thực phẩm, bảo vệ môi trường sinh thái cho đến khía cạnh ổn
định chính trị – xã hội. Vì vậy, đảm bảo an ninh nguồn nước chính là nhiệm vụ
trọng tâm, cho phép mỗi quốc gia đạt được những mục tiêu an ninh lớn hơn về
lương thực, phát triển bền vững và trật tự xã hội. ĐBSCL là vùng
đất rộng lớn chiếm 12% diện tích, 19% dân số cả nước, mạng lưới sông, kênh, rạch dày đặc; có lợi
thế về phát
triển nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, du lịch, năng lượng tái tạo; là trung
tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất của Việt Nam: đóng góp 50% sản lượng lúa, 65%
sản lượng nuôi trồng thủy sản và 70% các loại trái cây của cả nước; 95% lượng gạo
xuất khẩu và 60% sản lượng cá xuất khẩu; có vị trí thuận tiện trong giao thương
với các nước ASEAN và Tiểu vùng sông Mê Công [1,
tr. 2]. Đề cập về nguồn tài
nguyên nước ở ĐBSCL, nhiều chuyên gia đã phân tích, đối với tài nguyên nước mặt,
vùng đồng bằng châu thổ có hệ thống sông suối, kênh rạch chằng chịt bao gồm
sông Tiền và sông Hậu, phân lưu ra các cửa sông kế tiếp nhau là sông Cổ Chiên,
sông Hàm Luông, sông Ba Lai, sông Cửa Đại và Cửa Tiểu, sông Hậu qua cửa Định An
và Trần Đề. Còn đối với tài nguyên nước dưới đất, Đồng bằng
sông Cửu Long chính là một trong các vùng có tiềm năng nước dưới đất lớn nhất
nước ta, gồm 7 tầng chứa nước chính, chiều sâu phân bố từ vài chục mét đến
500-600 mét. Các khu vực tiềm năng nguồn nước ngọt (hay còn gọi là nước nhạt) lớn
gồm: Bạc Liêu, Long An, Đồng Tháp, Cà Mau, Trà Vinh, Cần Thơ. Trữ lượng khai
thác tiềm năng nước ngọt khoảng 22,5 triệu m3/ngày, trữ lượng tiềm năng nước lợ,
mặn khoảng 39 triệu m3/ngày. Trong đó, trữ lượng khai thác an toàn nước ngọt
toàn vùng khoảng 4,5 triệu m3/ngày. ĐBSCL là vùng kinh tế
phát triển nông nghiệp, việc quản lý, khai
thác nguồn nước phục vụ sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội luôn có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển toàn diện của toàn vùng cũng như cả
nước. Để sản xuất nông nghiệp với 2-3 vụ lúa trong năm, cây ăn trái và nuôi thủy
sản quanh năm, cộng với nước phục vụ sinh hoạt, các khu công nghiệp, du lịch, dịch
vụ..., tổng nhu cầu nước ngọt trong năm dao động từ 700-2.000 m3/s, đặc biệt
vào các tháng mùa khô, chiếm đến 15-50% dòng chảy kiệt vào lưu vực sông Mê Công, khiến bài toán “cân bằng cung - cầu” trở thành vấn đề
quan trọng hơn trong quản lý nước. Tuy nhiên, ĐBSCL đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức về đảm bảo an
ninh nguồn nước, thậm chí đe dọa đến an ninh lương thực, phát triển bền vững của
ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung. - ĐBSCL
lại là vùng đất thấp ven biển, nên hàng năm thường bị tình trạng nước biển xâm
nhập sâu vào đất liền. Hiện tượng này xuất hiện theo chu kỳ và thường xảy ra
gay gắt trong các tháng mùa khô, từ tháng 11 đến tháng 5 hàng năm. Xâm nhập mặn
thường bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố như: Dòng chảy từ thượng nguồn vào ĐBSCL;
dòng chảy trên sông, kênh rạch nội đồng; chế độ thủy triều vùng ĐBSCL; biến
đổi khí hậu và tác động của con người trong khai thác và sử dụng nước. Hạn mặn đã khiến nhiều diện
tích lúa, cây ăn trái, canh tác thuỷ sản, rau màu bị thiệt hại, cả hoạt động sản
xuất nông nghiệp và đời sống sinh hoạt của người dân đều chịu tác động tiêu cực.
Xâm nhập mặn đã khiến cho nguồn cung cấp nước phục vụ tưới tiêu cho sản xuất
lúa, cây ăn trái và cây hoa màu và nuôi trồng thủy sản nước ngọt thiếu hụt trầm
trọng, xâm nhập mặn ngày càng tiến sâu hơn vào vùng nội đồng khiến công tác điều
tiết nguồn nước cho thủy lợi gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, đối với đời sống
người dân, hạn mặn cũng đã khiến nhiều hộ gia đình thiếu nước sinh hoạt nghiêm
trọng, thậm chí nguồn nước cấp từ các nhà máy nước sạch tại các đô thị trên địa
bàn nhiều tỉnh cũng có dấu hiệu nhiễm mặn. - Sự phát triển của các đập thủy điện
phía thượng nguồn, các hồ
chứa nhân tạo, các dự
án chuyển nước trên dòng chính sông Mê Công liên tục được triển khai trong
hai thập kỷ trở lại đây là nguyên nhân trực tiếp gây ra thực trạng mất an ninh
nguồn nước ở ĐBSCL. Do phát triển kinh tế và
nông nghiệp của các quốc gia hai bên lưu vực, hàng trăm đập thủy điện đã và
đang được hình thành đã tác động lớn tới dòng chảy và lưu lượng nước sông Mê
Công, khiến một số đoạn sông Mê Công khô cạn đáy ngay cả trong mùa mưa. Nghiên
cứu của Nhóm tư vấn nghiên cứu nông
nghiệp quốc tế - CGIRA cho thấy, lưu
vực sông Mê Công hiện có tới trên 300 đập thủy điện đã hoàn thiện, trên 40 đập
đang trong quá trình xây dựng và trên 70 đập dự kiến xây dựng. Ở các dòng nhánh
của sông Mê Công đã có hơn 90 đập thủy điện và Ủy hội sông Mê Công thống kê đến
năm 2030 sẽ có thêm 30 đập nữa được triển khai trên các dòng nhánh của sông.
Như vậy đến năm 2030, sông Mê Công sẽ bị bao phủ bới hơn 400 đập thủy điện lớn
nhỏ với số lượng hồ chứa được quy hoạch trên thượng lưu đạt tổng dung tích
101,9 tỷ m3; riêng 8 đập thủy điện trên dòng chính nằm trong lãnh địa Trung Quốc
đã giữ lại hơn 40 tỷ m3 nước. Các đập thủy điện đã làm thay đổi vĩnh viễn
dòng chảy và bản chất tự nhiên của dòng sông; ảnh hưởng tới chất lượng và lưu
lượng nước; suy giảm lượng phù sa; đe dọa đến hệ sinh thái thủy sinh; gây thiệt
hại cho ngành thủy sản và nông nghiệp; đe dọa đến phát triển kinh tế. Nằm ở vị
trí hạ lưu sông Mê Công, ĐBSCL là vùng phải chịu nhiều thiệt hại nhất khi thượng
nguồn không có sự chia sẻ nước công bằng giữa các quốc gia. Thiếu hụt nguồn nước
từ thượng nguồn còn khiến cho ĐBSCL phải đối mặt với việc thiếu nước đẩy mặn
trước tình trạng nước biển dâng do biến đổi khí hậu dẫn đến sạt lở, xâm ngập mặn,
đe dọa đến an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, kinh tế - chính trị - xã hội
của cả vùng. - Không chỉ gặp thách thức an ninh nguồn
nước từ lưu lượng nước ngày càng suy giảm, ĐBSCL còn đang phải đối mặt với tình
trạng chất lượng nước của vùng đang suy thoái từng ngày. Theo Viện khoa học xã hội vùng Nam bộ, nguồn nước mặt
tại nhiều tỉnh, thành ở ĐBSCL hiện ô nhiễm
nghiêm trọng do sự phát triển nhanh của các dự án công nghiệp và đô thị
hóa. Tại các tỉnh có tốc
độ phát triển kinh tế và đô thị hóa nhanh như: Cần Thơ, Long An, An Giang...
lượng nước thải từ hàng trăm, hàng nghìn cơ sở công nghiệp, khu công nghiệp,
nông nghiệp, sinh hoạt, làng nghề, bệnh viện, khai thác khoáng sản… chưa qua
xử lý, được xả trực tiếp
vào các hệ thống kênh rạch đã khiến nguồn nước mặt cũng như nước ngầm bị ô
nhiễm trên quy mô lớn. Hầu hết các khu công nghiệp, cụm công nghiệp ở ĐBSCL đều
tập trung dọc tuyến sông Hậu, sông Tiền, hoạt động trong lĩnh vực chế biến thủy
sản đông lạnh xuất khẩu, hệ thống xử lý nước thải tập trung chiếm tỷ lệ thấp
hoặc không đạt tiêu chuẩn vẫn xả ra môi trường mỗi ngày, khiến cho tài nguyên nước mặt bị nhiễm chất bẩn hữu
cơ và vi sinh. Như vậy, một lượng đáng kể nước thải không qua xử lý
hoặc xử lý không đạt tiêu chuẩn vẫn xả ra môi trường mỗi ngày. Đây là một trong
những nguyên nhân khiến tài nguyên nước bề mặt trên sông Tiền, sông Hậu và các
cửa sông thông ra biển... tại ĐBSCL đã có các dấu hiệu nhiễm bẩn chất hữu cơ và
vi sinh. Việc thâm canh tăng vụ trong trồng trọt, nuôi trồng thủy sản đã bộc lộ
mặt trái: gây ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái, sụt lún đất, suy giảm
mạch nước ngầm..., đang gây áp lực lớn lên môi trường, nguy cơ lây lan dịch
bệnh.
- Tình trạng sụt lún đất ĐBSCL do nhiều
nguyên nhân, trong đó có việc khai thác nước ngầm quá mức làm ĐBSCL đang bị hạ
thấp dần. Các số liệu đo đạc, nghiên cứu cho thấy mức độ lún từ 0,5-3cm/năm;
các vùng ven biển phổ biến lún từ 1,5-2,5 cm/năm, nhiều nơi lớn hơn 2,5cm/năm,
trong khi đó tỷ lệ nước biển dâng vào khoảng 0,3 cm/năm, dẫn đến ngập nước sẽ
gia tăng, tiêu thoát nước sẽ rất khó gây khó khăn cho sản xuất, giá thành cao,
mức độ ô nhiễm nguồn nước và môi trường tăng và khó kiểm soát hơn... 2.2.
Giải pháp - Một là, Trung
ương cần ra
nghị quyết chuyên đề về
an ninh nguồn nước nói chung và ở ĐBSCL nói riêng. Nâng cao nhận thức, tiếp tục quan tâm chỉ đạo
hơn nữa về vấn đề này trong giai đoạn tới để phát triển ĐBSCL theo hướng thích
nghi có kiểm soát, khai thác tối ưu các lợi thế so sánh để phát triển theo
hướng bền vững sinh thái. Chính phủ ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP ngày 17 tháng 11 năm 2017 “về phát triển bền vững Đồng
bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu” đã cho thấy quyết tâm chính trị và định hướng chính
sách cụ thể trong vấn đề phát triển bền vững vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, chúng ta cần nhìn nhận, đánh giá đúng vai trò trung tâm của an ninh
nước trong hoạch định chính sách bởi các mục tiêu phát triển bền vững chỉ đạt
được khi an ninh nước được đảm bảo. - Hai là, sử
dụng nước tiết kiệm, hiệu quả Cụ thể, kiểm
soát các hoạt động khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước trên
lưu vực sông Cửu Long thông qua việc kết nối, truyền thông tin, dữ liệu về hệ
thống giám sát khai thác, sử dụng nước, xả nước thải theo quy định. Bên cạnh
đó, bổ sung, xây dựng mới công trình tích, trữ nước, công trình bổ cập nhân tạo
nước dưới đất, điều tiết, khai thác, sử dụng, phát triển tài nguyên nước bảo
đảm đa mục tiêu, phù hợp thực tiễn. Nâng cao khả
năng tích trữ nước của các ao, hồ, khu trũng sẵn có, kênh nội đồng, kênh cấp
II, III trên nguyên tắc bảo đảm an toàn; bổ sung, xây dựng mới công trình điều
tiết, khai thác, sử dụng, phát triển tài nguyên nước đa mục tiêu, bảo đảm cấp
nước cho mùa cạn theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong
trường hợp xảy ra thiếu nước, phù hợp với Quy hoạch này và các quy hoạch chuyên
ngành khác có liên quan. Ngoài ra, rà
soát, điều chỉnh quy trình vận hành hệ thống thủy lợi bảo đảm lưu thông dòng
chảy, cải tạo môi trường nước phù hợp tình hình thực tế; xây dựng kế hoạch, lộ
trình đầu tư xây dựng công trình cấp nước dự phòng trong trường hợp xảy ra sự
cố ô nhiễm nguồn nước, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn... - Ba là, quản lý, điều hòa, phân bổ nguồn nước góp phần bảo đảm
an ninh nguồn nước cho các mục đích khai thác, sử dụng và các mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội trên lưu vực sông. Cụ thể, quản
lý điều hòa lượng nước có thể khai thác, sử dụng trên toàn lưu vực ứng với tần
suất 50% khoảng 128.241 triệu m3, ứng với tần suất 85% khoảng
118.091 triệu m3, trong đó lượng nước có thể khai thác, sử dụng từ
ngoài biên giới chảy vào (tại các trạm thủy văn Tân Châu, Châu Đốc) ứng với tần
suất 50% khoảng 111.200 triệu m3, ứng với tần suất 85% khoảng
102.200 triệu m3 đáp ứng nhu cầu khai thác, sử dụng nước đến
năm 2030 [2, tr 2]. Trường hợp hạn hán, thiếu nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường
quyết định việc điều hoà, phân bổ nguồn nước cho các mục đích sử dụng cho phù
hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nước. Trường hợp xảy ra thiếu nước nghiêm
trọng, dòng chảy đến tại các trạm thủy văn Tân Châu, Châu Đốc thiếu hụt trên
30% so với trung bình nhiều năm trong mùa cạn, xâm nhập mặn sâu vào các sông,
rạch, nội đồng (như các năm 2019, 2020), cần thực hiện việc đàm phán với các
quốc gia thượng nguồn để yêu cầu gia tăng lượng nước về đồng bằng, chuyển từ
phương thức đáp ứng nhu cầu sang chủ động quản lý nhu cầu trên các vùng sinh
thái lợ và mặn, kết hợp các giải pháp tích, trữ, tạo nguồn. - Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh hợp tác
trong cơ chế hợp tác Mekong-Lan Thương về khai thác sử dụng nguồn nước. Việt
Nam cần tiếp tục phối hợp với các quốc gia thành viên Ủy hội sông Mê Công quốc
tế thúc đẩy thực hiện hiệu quả Hiệp định Mê Công nhằm quản lý, khai thác sử dụng
nguồn tài nguyên nước sông Mê Công một cách bền vững, công bằng, hợp lý; tăng
cường hợp tác với các quốc gia trên lưu vực thông qua các kênh hợp tác song
phương và đa phương, đặc biệt là cơ chế hợp tác Ủy hội sông Mê Công quốc tế và
Hợp tác Mê Công - Lan Thương. Việt Nam
cũng cần tiếp tục thúc đẩy công tác chia sẻ thông tin, số liệu, nâng cấp công cụ
phân tích đánh giá, công cụ dự báo, tăng cường năng lực phục vụ cho các hoạt động
nghiên cứu, giám sát; thực hiện hiệu quả các quy chế, thủ tục sử dụng nước và
chiến lược phát triển lưu vực, quy hoạch vận hành chung giữa các quốc gia ven
sông. - Năm là, cần tăng cường hợp tác với các quốc gia có kinh nghiệm trong
việc ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn,
hạn hán. Tranh
thủ sự giúp đỡ của các quốc gia, tổ chức quốc tế trong việc ứng phó với hạn mặn, đảm bảo an ninh nguồn nước nói riêng và biến đổi khí hậu nói chung. Với hồ
nước tự nhiên và thời tiết rất nóng, Israel đã triển khai trên toàn thế giới
công nghệ tưới nhỏ giọt tiên tiến nhất và kết quả là năng suất cây trồng ở
Israel đã tăng lên (tăng hơn gấp đôi) và hơn 80% sản phẩm nông nghiệp từ phương
pháp tưới này đang được xuất khẩu trên toàn thế giới. Công
nghệ tưới nhỏ giọt sử dụng hệ thống đa cảm biến nhận tín hiệu từ môi trường (độ
ẩm, hàm lượng N/P/O, v.v.) từ đó đẩy lượng nước phù hợp đến đúng vị trí, nhờ đó
tối đa hóa quá trình tưới. Ngoài ra, để hạn chế thất thoát nước trên toàn bộ
đường ống cấp nước, chỉ trong 10 năm, Nhà nước Israel đã chi khoảng 123 triệu
USD để nâng cấp, củng cố hệ thống đường ống cấp nước trên toàn quốc. Nhờ vậy,
nguồn nước đã được tiết kiệm và sử dụng rất hiệu quả. 3. Kết vấn đề Có thể khẳng định, an ninh
nguồn nước là vấn đề mang ý nghĩa sống còn đối với ĐBSCL. Bởi vậy, cần tập trung xử lý những bất cập trong bảo
vệ môi trường để khắc phục tình trạng suy thoái chất lượng nước; thực hiện quyết liệt các giải pháp thích ứng với
biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn; kêu gọi các quốc gia thượng
nguồn chia sẻ công bằng nước sông Mê Công. Về lâu dài, cần có chiến lược bền vững, đảm bảo đủ lượng nước cho đời sống hàng triệu cư dân và phát triển kinh tế cho vùng đất vốn được mệnh danh là cái nôi của văn
minh sông nước./. TÀI LIỆU
THAM KHẢO 1. Nghị
quyết 120/NQ-CP ngày 17 tháng 11 năm 2017 “về phát triển bền vững
Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu”. 2. Quyết định 174/QĐ-TTg ngày 6/3/2023 phê duyệt Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông
Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. ThS Ngô Hồng Phong |