Chuyện dân gian về anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực
* Đôi nét về người anh hùng
Nguyễn Trung Trực còn có tên là Nguyễn Văn Lịch (dân gian thường gọi tôn kính là Cụ Nguyễn). Ông sinh năm 1838, tại làng Bình Nhật, huyện Cửu An, phủ Tân An, ngày nay là xã Bình Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Gia đình ông sống bằng nghề chài lưới trên sông Bến Lức. Gốc gác cụ Nguyễn là ngư dân ở huyện Phù Cát, Quy Nhơn (Bình Định), từ vài thế kỷ trước di cư vào Nam lập nghiệp. Thời còn trẻ Nguyễn Trung Trực đã học giỏi cả văn, võ. Nhưng nổi bật nhất là võ nghệ, năm 16 tuổi đã tỉ thí võ đài ở địa phương. Tháng 02/1859, thực dân Pháp đánh thành Gia Định, Nguyễn Trung Trực lập đội nghĩa dũng có nhiều người hưởng ứng, kéo lên ứng cứu. Năm 1861, Nguyễn Trung Trực tham gia nghĩa quân của Bình Tây đại nguyên soái Trương Định, được giao chức Quản đạo. Đạo quân của Nguyễn Trung Trực hoạt động mạnh ở vùng Tân An (Long An). Chiến công hiển hách nhất của Nguyễn Trung Trực và nghĩa quân là khéo léo, mưu trí “hóa trang kỳ tập” giả làm đám cưới, đánh, đốt cháy tàu chiến của thực dân Pháp tại vàm sông Nhựt Tảo vào ngày 10/12/1861. Sau đó, Nguyễn Trung Trực còn lập nhiều chiến công khác khiến thực dân Pháp rất khiếp sợ. Năm 1867, Nguyễn Trung Trực được phong chức Lãnh binh tỉnh Gia Định, rồi Thành thủ úy Hà Tiên. Ngày 24/6/1867, Hà Tiên bị thực dân Pháp đánh chiếm, Nguyễn Trung Trực phải rút quân về Hòn Chông, tổ chức cho nghĩa quân hoạt động ở vùng vùng Tà Niên, U Minh Thượng (Kiên Giang). Đêm 16/6/1868, Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân đánh úp đồn Rạch Giá và chiếm giữ cả tuần lễ. Thực dân Pháp phải điều động quân đội, vũ khí hạng nặng từ Vĩnh Long sang tái chiếm Rạch Giá. Nghĩa quân của cụ Nguyễn quá chênh lệch so với quân Pháp, vũ khí lại thô sơ phải rút về Hòn Chông, rồi ra đảo Phú Quốc. Thực dân Pháp tiến đánh Phú Quốc, nghĩa quân chống cự quyết liệt, cuối cùng chúng phải dùng thủ đoạn bắt mẹ của cụ Nguyễn làm con tin. Ngày 19/9/1868, cụ Nguyễn bị thực dân Pháp bắt và đưa ông ra chợ Rạch Giá xử chém ngày 27/10/1868. * Chuyện kể dân gian Bức ảnh cụ Nguyễn: Nhiều tư liệu về cụ Nguyễn đều ghi nhận cụ hy sinh năm mới 30 tuổi (1838-1868). Tuy nhiên tất cả di ảnh, tượng thờ cụ ở Nam Bộ đều thể hiện một người đàn ông quắc thước, có râu dài, khoảng độ 50-60 tuổi. Lý giải việc này, trong dân gian cho rằng: cụ Nguyễn là một tướng lĩnh tài ba, trẻ tuổi, để tạo uy tín khi vận động các tầng lớp nhất là các sỹ phu, cụ Nguyễn phải “cải trang” trở thành người lớn tuổi. Mặt khác, việc trang nói trên cũng nhằm qua mắt bọn tay sai, chỉ điểm của thực dân Pháp. Trước đó, để dập tắt phong trào khởi nghĩa ở Nam Bộ, thực dân Pháp đã cho người vẽ chân dung các lãnh tụ: Trương Định, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Trung Trực, dán thông báo truy nã, treo giải thưởng rất cao cho những người tố giác. Chính nhờ việc cải trang này cụ Nguyễn qua được mắt giặc, bí mật hoạt động ở nhiều nơi, chuẩn bị tốt cho cuộc khới nghĩa. Đôi mắt cụ Nguyễn: Chuyện kể rằng một lần cụ Nguyễn và nghĩa quân đang giong buồm trên vùng biển Tây. Bỗng nhiên mây đen ùn ùn kéo đến, quân sỹ trên đoàn thuyền đều hoảng sợ, lo lắng trong phút chốc sẽ có sóng to, gió lớn làm tàu thuyền bị chìm đắm. Thế nhưng, cụ Nguyễn trong mui thuyền vẫn bình tĩnh, ung dung bước đến mũi thuyền rút kiếm ra, trợn mắt chỉ thẳng lên trời. Bỗng chốc trời yên, biển lặng. Từ đó đến nay nhiều ngư dân trong vùng có tập tục đóng thuyền đi biển đều vẽ hai con mắt thuyền chỉ có màu trắng, không có tròng đen. Chiếu Tà Niên có hình chữ “Thọ”: Người dân Tà Niên (Huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang) có nghề dệt chiếu truyền thống. Từ xa xưa, chiếu Tà Niên đẹp, bền, nổi tiếng khắp Nam Bộ. Hay tin cụ Nguyễn sẽ bị thực dân Pháp hành hình, cảm kích khí khái kiên trung của cụ, người Tà Niên đã bàn với nhau ngày đêm dệt chiếu trải dưới chân người anh hùng dân tộc. Khi tên đao phủ ra tay, máu từ cổ cụ Nguyễn phun ra mặt chiếu đọng thành hình chữ “Thọ”. Để tiếc thương cụ, người dân Tà Niên đã mang chiếc chiếu này về phụng thờ rất trang trọng. Cũng từ đó, chiếu ở Tà Niên dệt ra đều phải in hoa văn chữ “Thọ” lưu truyền cho đến ngày nay. Lễ hội truyền thống kỷ niệm 151 năm anh hùng Nguyễn Trung Trực hy sinh 1868-2019 tại TP.Rạch Giá Ngôi mộ linh thiêng của Bà lớn tướng Lê Kim Định Bà Lê Kim Định còn có tên là bà Điều, dân gian gọi là “Bà lớn tướng”- phu nhân của cụ Nguyễn Trung Trực. Như đã nêu, khi cụ Nguyễn lui quân về Phú Quốc, bà Điều cũng ra Phú Quốc cùng chồng kháng chiến chống thực dân Pháp. Lúc này bà vừa mới sinh được một người con trai. Do mới từ đất liền ra, căn cứ chưa kịp xây, quân Pháp đã tiến đánh, cụ Nguyễn phải chia nghĩa quân thành 2 cánh, lùi về Bắc đảo phục kích quân Pháp.Bà Điều được giao chỉ huy một cánh quân đóng tại sông Cửa Cạn, có nhiệm vụ khiêu khích, nhử quân Pháp từ biển theo đường sông tiến sâu vào đảo. Cánh quân kia do cụ Nguyễn chỉ huy mai phục cặp sông, nhằm bất ngờ đánh úp. Để an toàn cho đứa con mới chào đời, bà Điều đã giao cho cụ Nguyễn trông giữ. Thực dân Pháp tấn công đúng lúc thủy triều xuống, tàu nghi binh của bà Điều bị mắc cạn. Tuy vậy, bà Điều vẫn bình tĩnh, chỉ huy nghĩa quân vừa chiến đấu vừa cho người bươi cát để tàu rút vào nhánh sông. Khi hay tin đoàn thuyền của bà Điều mắc cạn, cụ Nguyễn vội vã giấu con trai vào một bọng cây cổ thụ rồi chỉ huy nghĩa quân giải cứu cho vợ. Khi ra đến cửa sông thì bà Điều đã hy sinh, cụ Nguyễn phải mang thi thể của vợ an táng tạm ở gần đó. Bị quân Pháp đánh ác liệt, cụ Nguyễn phải rút lui về Ghềnh Dầu. Tương truyền khi bỏ con lại trong bọng cây cụ đã đặt vào một nải chuối vàng làm dấu. Mấy hôm sau, một nghĩa quân của cụ Nguyễn giả dạng ngư dân vượt qua vòng vây của quân Pháp trở ra cửa sông để tìm con trai của cụ nhưng không còn dấu vết. Đến nay nhiều ngư dân ở Cửa Cạn vẫn thường đến thắp nhang cho một ngôi mộ cổ ở cửa sông Cửa Cạn trước khi đi biển dài ngày. Dân gian kể rằng, vào những đêm trăng sáng, nhiều người thường thấy một chiếc tàu cổ gần khu vực ngôi mộ. Trên con tàu đó có tiếng người thiếu phụ ru con rất não lòng. Những ngư dân nhìn thấy con tàu khấn nguyện thành tâm sẽ có chuyến đi biển “thuận buồm xuôi gió” và trúng nhiều mẻ lưới lớn. Nếu gạt bỏ những yếu tố thêu dệt, huyền thoại đi thì những chuyện kể nêu trên còn lại cái cốt lõi là lòng kính trọng, tôn thờ vị anh hùng của đông đảo người dân. Hiện nay ở đồng bằng sông Cửu Long có khoảng 20 đền thờ Nguyễn Trung Trực. Ngoài đền thờ chính, nhiều nơi còn thờ chung trong đình làng, đền, chùa... Nhiều nhà dân còn treo ảnh cụ Nguyễn trên bàn thờ như thờ tổ tiên, gia tộc của mình. Tất cả đều thể hiện cuộc đời và sự nghiệp của cụ Nguyễn mãi mãi bất tử trong lòng dân Nam Bộ. Quan Tuần phủ, nhà thơ lỗi lạc dưới triều Nguyễn-Huỳnh Mẫn Đạt (1807 - 1882) đã khái quát nhân cách và chiến công của cụ Nguyễn bằng hai câu thơ để đời: “Hoả hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần”. Tài liệu tham khảo: 1.Cổng thông tin điện tử tỉnh Kiên Giang: kiengiang.gov.vn 2. Nguyễn Trung Trực người anh hùng bất tử đất Nam Bộ, 2009, Sở Văn hóa, Thể thao và Thể thao tỉnh Kiên Giang xuất bản 3.Huyền thoại Anh Hùng Dân Tộc Nguyễn Trung Trực, 2018, Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Kiên Giang xuất bản
Bài và ảnh: Ngọc Anh (Bảo tàng TPCT)
|
Các bài viết khác: | |
▪ | Hội thảo – Tập huấn nâng cao kỹ năng cho nguồn nhân lực di sản (03/07/2018) |
▪ | Tập huấn sưu tầm và kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể (29/06/2018) |
▪ | HÀNH TRÌNH “TÌM VỀ DI SẢN” TẠI LỄ HỘI KỲ YÊN THƯỢNG ĐIỀN ĐÌNH BÌNH THỦY NĂM 2018 (05/06/2018) |
▪ | Phê duyệt Đề án: “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể thành phố Cần Thơ đến năm 2020” (04/01/2018) |
▪ | Bảo vật quốc gia đầu tiên của Cần Thơ (04/01/2018) |