CHUYỂN ĐỔI SỐ - THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN |
Hiệp định Geneve 1954: Một mốc son lịch sử của nền ngoại giao Việt Nam
Cách đây 70 năm, Hiệp định Geneve về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam đã được
ký kết, mở ra một trang mới trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước của nhân dân ta. Trải qua 70 năm, những bài học từ đàm phán, ký
kết và thực thi Hiệp định Geneve vẫn còn nguyên giá trị đối với công cuộc xây
dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Sở Ngoại vụ thành phố Cần
Thơ trân trọng giới thiệu bài viết của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn
nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày ký Hiệp định Geneve 1954.
Hội nghị Geneve 1954 bàn về lập lại hòa bình ở Đông
Dương - Ảnh sưu tầm Cách đây 70 năm, Hiệp định Geneve về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam đã được
ký kết, mở ra một trang mới trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước của nhân dân ta. Trải qua 70 năm, những bài học từ đàm phán, ký
kết và thực thi Hiệp định Geneve vẫn còn nguyên giá trị đối với công cuộc xây
dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Ý nghĩa và tầm vóc lịch sử của Hiệp định Geneve Cuối năm 1953, trước những chuyển biến mạnh mẽ trên cục diện chiến trường ở
Đông Dương, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương mở cuộc đấu tranh
trên mặt trận ngoại giao, phối hợp với cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953
- 1954 để đi tới chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và toàn Đông
Dương. Trả lời phỏng vấn của một nhà báo Thụy Điển ngày 26/11/1953, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định: "Nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc
chiến mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và
giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình, thì Nhân dân và Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó" và "cơ sở của việc đình
chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước
Việt Nam"[1]. Ngày 8/5/1954, đúng một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy
năm châu, chấn động địa cầu", Hội nghị Geveve bắt đầu bàn về vấn đề lập
lại hòa bình ở Đông Dương. Trải qua 75 ngày đàm phán căng thẳng và phức tạp với
7 phiên toàn thể và 24 phiên họp cấp trưởng đoàn, Hiệp định Geneve đã được ký
vào ngày 21/7/1954. Cùng với bản Tuyên bố về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông
Dương và Hiệp định đình chiến ở Đông Dương, bản Hiệp định đình chiến ở Việt Nam
đã khẳng định độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam,
quy định quân đội nước ngoài phải rút khỏi Đông Dương, xác định các giới tuyến
quân sự chỉ có tính tạm thời và mỗi nước Đông Dương sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự
do để thực hiện thống nhất đất nước, v.v... Trong "Lời kêu gọi sau khi Hội nghị Geveve thành công" ngày
22/7/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: "Hội nghị Geveve đã kết thúc.
Ngoại giao ta đã thắng lợi to"[2]. Quả thực, nếu trong Hiệp định Sơ bộ năm
1946, Pháp chỉ công nhận Việt Nam là quốc gia tự do nằm trong khối Liên hiệp
Pháp, thì với Hiệp định Geveve, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc ta, các
quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ đã chính thức được khẳng định trong một điều ước quốc tế và được các nước
tham dự Hội nghị Geveve thừa nhận. Đây là cơ sở chính trị, pháp lý rất quan
trọng để Nhân dân ta đấu tranh trên mặt trận chính trị, ngoại giao trong công
cuộc giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước sau này. Cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, việc ký kết Hiệp định Geneve đã kết
thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Nhân dân ta cũng như
chấm dứt hoàn toàn sự đô hộ của chủ nghĩa thực dân cũ kéo dài gần 100 năm tại
Việt Nam. Với ý nghĩa đó, Hiệp định đã mở ra thời kỳ chiến lược mới của cách
mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời tiến hành cách
mạng dân tộc dân chủ Nhân dân ở miền Nam để đi tới thực hiện trọn vẹn mục tiêu
độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Thắng lợi tại Hội nghị Geneve bắt nguồn từ đường lối cách mạng đúng đắn và
sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; từ khát vọng
hòa bình cháy bỏng, chủ nghĩa yêu nước cùng bản lĩnh và trí tuệ của dân tộc
Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Hiệp định Geneve
là kết tinh thành quả đấu tranh quật cường và bền bỉ của quân và dân ta, từ
chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 đến Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 và
tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên
Phủ. Cùng với Hiệp định Sơ bộ 1946 và Hiệp định Paris 1973, Hiệp định Geneve
1954 là một mốc son lịch sử của ngoại giao cách mạng Việt Nam, mang đậm dấu ấn
tư tưởng, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh. Hội nghị Geneve đã
tôi luyện nên những nhà lãnh đạo đồng thời cũng là những nhà ngoại giao xuất
sắc trong thời đại Hồ Chí Minh như các đồng chí Phạm Văn Đồng, Tạ Quảng Bửu, Hà
Văn Lâu và nhiều cán bộ ngoại giao ưu tú khác. Nhìn lại 70 năm ngày ký Hiệp
định Geneve, chúng ta biết ơn vô hạn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thế hệ
cách mạng tiền bối cũng như sự hy sinh vô cùng to lớn của quân và dân ta trong
kháng chiến chống thực dân Pháp. Chúng ta luôn ghi nhớ tình đoàn kết trong sáng và sự ủng hộ, giúp đỡ của
nhân dân Lào, Campuchia, các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa
bình trên thế giới, trong đó có nhân dân Pháp, dành cho Việt Nam trong suốt
cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc. Do đó, Hiệp định Geneve không chỉ
là thắng lợi của Việt Nam, mà còn là thắng lợi chung của ba nước Đông Dương và cũng
là thắng lợi của các dân tộc bị áp bức trong đấu tranh giải phóng dân tộc. Cùng
với chiến thắng Điện Biện Phủ, Hiệp định Geneve đã cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào
đấu tranh vì hòa bình và độc lập dân tộc, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa
thực dân cũ trên toàn thế giới. Từ năm 1954 - 1964, có tới 17 trong 22 thuộc
địa của Pháp đã giành độc lập; riêng năm 1960 có tới 17 nước ở Châu Phi tuyên
bố độc lập. Những bài học trường tồn với nền ngoại giao Việt Nam mang đậm bản sắc
"cây tre Việt Nam" Đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Geveve là cuốn cẩm nang quý báu về
trường phái đối ngoại và ngoại giao Việt Nam với nhiều bài học còn nguyên giá
trị về nguyên tắc, phương pháp và nghệ thuật ngoại giao, mang đậm bản sắc ngoại
giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Trước hết, đó là bài học về kiên định
độc lập, tự chủ trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc. Quá trình đàm phán, ký
kết Hiệp định Geveve cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn giá trị của nguyên tắc độc
lập, tự chủ trong các vấn đề quốc tế. Bởi các quốc gia đều vì lợi ích của mình,
nên chỉ có kiên định độc lập, tự chủ mới giúp chúng ta giữ vững thế chủ động và
bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Thứ hai, bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, gắn kết
đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế để tạo nên "một sức mạnh vô
địch". Bên cạnh phát huy tối đa sức mạnh ngọn cờ chính nghĩa và khối đại
đoàn kết dân tộc, Đảng ta đã có chủ trương đúng đắn về không ngừng mở rộng đoàn
kết quốc tế, trước hết là đoàn kết với Lào, Campuchia, các nước xã hội chủ
nghĩa, bạn bè quốc tế và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Thứ ba, bài học về kiên định mục tiêu, nguyên tắc, song cơ động, linh hoạt
sách lược theo phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến". Đúng như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định "mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, sách
lược của ta thì linh hoạt"[3], trong đàm phán và thực thi Hiệp định
Geveve, cái gốc "bất biến" là Việt Nam độc lập, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đến Hiệp định Paris 1973 sau này. Còn
"vạn biến" là trong lúc chưa thể thực hiện được trọn vẹn mục tiêu
cuối cùng, có thể linh hoạt và biến hóa trong sách lược để rồi từng bước tiến
tới đạt được mục tiêu bất biến. Đó là một phương pháp và nghệ thuật ngoại giao
Hồ Chí Minh được kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển trong công cuộc đổi
mới và hội nhập quốc tế của nước ta; đồng thời, thể hiện bản sắc "cây tre
Việt Nam" của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, "gốc vững",
"thân chắc", "cành uyển chuyển". Thứ tư, bài học về coi trọng nghiên cứu, đánh giá và dự báo tình hình,
"biết mình", "biết người", "biết thời",
"biết thế" để từ đó "biết tiến", "biết thoái",
"biết cương", "biết nhu". Đây là bài học sâu sắc, nhất là
trong bối cảnh thế giới hiện nay đang trải qua những biến động lớn, phức tạp và
khó lường, càng phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo tình hình thế giới,
nhất là chuyển động của các xu hướng lớn, điều chỉnh chiến lược, chính sách của
các đối tác, trên cơ sở đó chủ động có đối sách phù hợp với từng đối tác, từng
vấn đề. Thứ năm, bài học về sử dụng đối thoại và đàm phán hoà bình để giải quyết
bất đồng, xung đột trong quan hệ quốc tế. Cùng với quyết định mở cuộc tiến công
chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954, Đảng ta đã chủ trương dùng biện pháp đàm
phán hoà bình để chấm dứt chiến tranh, từ đó đã mở hướng đi tới một cuộc đàm
phán để kết thúc chiến tranh ở Đông Dương. Dù có thể có góc nhìn khác nhau,
song không thể phủ nhận Hội nghị Geneve đã để lại một bài học mang tính thời
đại về giải quyết bất đồng và xung đột quốc tế bằng biện pháp hòa bình, nhất là
trong bối cảnh thế giới hiện nay đang diễn ra nhiều xung đột phức tạp. Thứ sáu, bài học bao trùm là sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng đối
với sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta nói chung và mặt trận ngoại giao nói
riêng. Đảng đã đề ra chủ trương, đường lối và sách lược cách mạng đúng đắn, mở
ra mặt trận ngoại giao chủ động tiến công, phối hợp chặt chẽ và thống nhất với
các mặt trận chính trị, quân sự để tạo nên sức mạnh tổng hợp, bảo đảm cao nhất
lợi ích dân tộc. Những bài học nổi bật nói trên cùng nhiều bài học quý báu khác từ Hiệp định
Geneve đã được Đảng ta kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển trong suốt quá
trình đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Paris 1973 cũng như trong triển
khai công tác đối ngoại hiện nay. Trong gần 40 năm tiến hành Đổi mới, chúng ta
luôn nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa
phương hóa; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; là bạn, là
đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc
tế. Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn này, đến nay nước ta đã thiết lập
quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc, có quan hệ đối
tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện với 5 nước Ủy viên thường trực
Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, có mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược và đối
tác toàn diện với 30 nước. Việt Nam là thành viên tích cực, có trách nhiệm của
hơn 70 tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế lớn như Liên Hợp Quốc, ASEAN, WTO,
APEC, ASEM...; đã tham gia và đang đàm phán 19 hiệp định thương mại tự do, tạo
nên một mạng lưới liên kết kinh tế rộng mở với khoảng 60 nền kinh tế trên thế
giới. Phát huy các bài học của Hiệp định Geveve và truyền thống vẻ vang của ngoại
giao cách mạng Việt Nam, toàn ngành ngoại giao dưới sự lãnh đạo của Đảng quyết
tâm xây dựng nền ngoại giao Việt Nam vững mạnh, toàn diện, hiện đại, đóng góp
xứng đáng vào thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./. [1] NXB Chính trị quốc gia- Sự thật, 2011, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 8,
trang 340. [2] NXB Chính trị quốc gia- Sự thật, 2011, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 9,
trang 1. [3]NXB Chính trị quốc gia- Sự thật, 2011, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 8, trang
555. Bùi Thanh Sơn Ủy viên Trung ương Đảng Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
|