Văn hóa ẩm thực |
Thức uống và cách uống của Người Cần Thơ
Trà và rượu là hai thức uống truyền thống căn bản. Ngày xưa, trong điều kiện sinh hoạt giản đơn, người nông dân chỉ uống nước lã để giải khát. Trà là món hiếm hoi, chỉ dành cho người già và tiếp khách. Mỗi khi khách đến nhà, ba món tối thiểu phải có là trầu cau, thuốc và trà. Sau đó, để giải quyết lễ nghĩa thân tình người ta mời dùng rượu. Đất Cần Thơ không trồng được trà nên dân ở đây không uống “chè xanh”, “chè mộc” như ở miền Trung miền Bắc mà dùng phổ biến trà Tàu có ướp hương lài hoặc sen. Khác với dân cư vùng nước mặn thích uống trà pha bằng nước mưa nấu sôi, người Cần Thơ thuộc vùng nước ngọt quanh năm, chỉ chịu pha trà bằng nước sông múc lên lóng cặn rồi nấu. Pha bằng nước sông, trà mau ra nước và ra rất đậm cho mùi vị nhiều hơn.
Rượu - Trà là thức uống đồng thời là vật thể hiện sự tôn trọng lễ nghi. Trong bất cứ lễ tiệc cúng bái, chiêu đãi nào cũng đều có trà và rượu, mà có lẽ quan trọng nhất là rượu nên được đặt lên vị trí hàng đầu. “Vô tửu bất thành lễ”, “ly rượu lễ”, “rượu mừng”, “tiệc rượu chung vui”, “ly rượu chia buồn”... chứng tỏ rượu có mặt khắp nơi. Người Cần Thơ có thói quen khi mời đám tiệc, giỗ quảy thường dùng tiếng rượu để tượng trưng. Người ta nói “kính mời ông bà (cô bác, anh chị) đến dùng với chúng tôi ly rượu hoặc “miếng rượu”, chớ không ai mời đến để ăn mâm lễ, mâm tiệc, dù biết rằng uống rượu. thì phải có ăn. Cho nên việc uống cũng là nếp văn hóa với đặc điểm phong cách của người Cần Thơ. Ngoài rượu đế, ở Cần Thơ còn có các loại rượu chế biến từ những nguyên liệu tại chỗ như rượu nếp than, rượu chuối, rượu khóm, nước cơm rượu, các thứ nước giải khát lên men và các thứ nước trái cây nguyên chất như nước dừa, nước khóm, nước mía, nước bưởi... Viết về việc ăn của người Nam bộ, sách “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức có ghi: “Người Gia Định thích ăn mắm, ngày ăn ba bữa cơm và ít khi ăn cháo”. Như vậy, cho đến ngày nay người Cần Thơ vẫn còn giữ nguyên cơ cấu 3 bữa cơm trong ngày, tuy rằng ở từng nơi, từng người có cách ăn riêng trong mỗi bữa, với liều lượng lương thực, thực phẩm nhiều ít khác nhau, chia làm bữa chính và bữa phụ. Ở thành thị, từ thời Pháp thuộc, người ta đã chia bữa ăn sáng làm bữa phụ, ăn nhẹ điểm tâm rồi đi làm việc, trưa và chiều mới là hai bữa chính. Ở nông thôn, cách vài chục năm về trước, người dân vẫn chưa có thói dùng điểm tâm mà ăn ngay bữa cơm chính vào lúc chưa rạng sáng để kịp ra đồng vào sáng sớm tinh mơ. Bữa trưa thường ăn tại nơi làm việc ở ruộng vườn, gọi là cơm ruộng hay cơm vườn. Đến chiều về mới ăn cơm trong gia đình. Ngày nay, với đà kinh tế phát triển và hướng đô thị hóa nông thôn, cơ cấu giờ giấc ăn uống của nông dân đã đổi khác. Buổi sáng, nông dân cũng ra quán ăn hủ tiếu, uống cà phê điểm tâm, hút thuốc thơm đầu lọc như người thành thị. ![]() Riêng về rượu, người Cần Thơ và một số nơi ở miền Tây Nam bộ có phong cách uống khác hơn các miền là chỉ dùng một ly hoặc một chén chung cho cả mâm tiệc chứ không trảt riêng từng ly, từng chén cho mỗi người. Khi đã vào mâm tiệc thì mọi người bình đẳng với nhau, tự nguyện chấp nhận điều lệ của cộng đồng dưới sự điều hành của người trải rượu, gọi là “chủ xị”. Tùy theo qui định mà mỗi người trong tiệc mỗi lần phải uống lượng rượu bao nhiêu. Cứ thế mà xoay vòng từ người này sang người khác.
|
|