Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã
hiến dâng toàn bộ cuộc đời mình cho độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của
nhân dân, người chiến sĩ cộng sản quốc tế mẫu mực và người bạn thân thiết của
các dân tộc đã và đang đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội trên toàn thế giới và càng có ý nghĩa hơn cho tất cả cán bộ, đảng
viên soi rọi lại mình trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác
và tiếp tục tự kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết trung ương 4, xây dựng đảng
trong sạch, vững mạnh.
I. Khái quát thân thế và sự nghiệp
của Chủ tịch Hồ Chí Minh
1. Giai đoạn 1890 – 1911
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là
Nguyễn Sinh Cung ) sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, tại
làng Hoàng Trù (còn gọi là Làng Chùa), xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay thuộc
xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là Nguyễn Sinh Sắc, thân mẫu
là Hoàng Thị Loan.
Từ lúc sinh ra đến 5 tuổi, Nguyễn
Sinh Cung sống trong sự chăm sóc đầy tình thương yêu của gia đình, đặc biệt là
ông bà ngoại.
Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung lại theo
gia đình vào sống ở Huế. Đầu năm 1901, sau khi mẫu thân qua đời, Nguyễn Sinh
Cung lại theo cha trở về Nghệ An, rồi lấy tên Nguyễn Tất Thành, tích cực học
chữ hán và còn theo cha đi một số nơi, học thêm nhiều điều.
Năm 1906, Nguyễn Tất Thành lại theo
cha vào Huế, thoạt đầu học trường Pháp-Việt , sau học trường Quốc học Huế.
Khoảng cuối năm 1909, Nguyễn Tất
Thành theo cha vào Bình Định, tháng 8/1910 vào Phan Thiết, làm giáo viên trường
Dục Thanh.
Tháng 2/1911, Nguyễn Tất Thành vào
Sài Gòn. Ngày 5/6/1911 với tên gọi mới là Văn Ba, lên tàu Amiran Latuso
Tơrêvin, rời bến cảng Nhà Rồng đi Mácxây (Pháp).
2. Giai đoạn 1911 – 1920
Tại Mác - Xây, ngày 15/9/1911, Người
viết thư gửi Bộ trưởng thuộc địa Pháp, ký tên Nguyễn Tất Thành, xin vào học
trường thuộc địa nhưng đã bị từ chối.
Từ năm 1912, Nguyễn Tất Thành đi qua
một số nước châu Phi, châu Mỹ. Giữa năm
1913, Người đến nước Anh, tham gia nhiều hoạt động ở đây cho đến giữa năm 1917
mới trở lại nước Pháp.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham
gia Đảng Xã hội Pháp, tháng 6/1919 thay mặt những người Việt Nam yêu nước gửi
bản yêu sách gồm 8 điểm (ký tên Nguyễn Ái Quốc) tới hội nghị các nước đế quốc
họp ở Véc-xây (nước Pháp), đòi chính phủ các nước họp hội nghị phải thừa nhận
quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc
được Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênnin. Tại Đại hội
Đảng Xã hội Pháp tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III
và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng Sản đầu tiên của
Việt Nam.

3. Giai đoạn 1921-1930
Từ năm 1921 đến tháng 6/1923, Nguyễn
Ái Quốc triển khai nhiều hoạt động, tham gia thành lập Hội liên hiệp các dân
tộc thuộc địa, dự Đại hội lần thứ I và lần thứ II của Đảng Cộng sản Pháp, sinh
hoạt trong câu lạc bộ Phôbua, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút Báo Người cùng khổ……
Ngày 13/6/1923, Người rời nước Pháp
đi Đức và ngày 22/6/1923 đi Liên Xô. Từ tháng 7/1923 đến tháng 10/1924, Nguyễn
Ái Quốc tích cực hoạt động trong phong trào cộng sản quốc tế, bổ sung và phát
triển lý luận về cách mạng thuộc địa. Người hoạt động trong Quốc tế Nông dân;
học tập tại trường Đại học Phương Đông; tham gia đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng
Sản; tiếp tục viết nhiều sách báo tuyên truyền cách mạng, hoàn thành tác phẩm
Bản án chế độ thực dân Pháp…
Từ khi rời Liên Xô về Quảng Châu
(Trung Quốc) tháng 11/1924 đến tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động,
chuẩn bị các điều kiện tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người thành
lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (tháng 6/1925), mở các lớp huấn luyện cán
bộ, xuất bản Báo Thanh Niên (1925) và tác phẩm Đường cách mệnh (1927).
Hè năm 1927, khi tình hình cách mạng
Trung Quốc có nhiều biến động phức tạp, Nguyễn Ái Quốc lại đi Liên Xô, sau đó
đi Đức tháng 11/1927) rồi bí mật sang Pháp, đến nước Bỉ dự cuộc họp của Đại hội
đồng liên đoàn chống đế quốc (tháng 12/1927), rồi quay lại Đức, đi Thụy Sỹ,
sang Italia. Tháng 7/1928, Nguyễn Ái Quốc tới Xiêm (Thái Lan), rồi trở lại
Trung Quốc vào cuối năm 1929. Từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930 tại Hương Cảng,
Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản,
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Giai đoạn 1930-1945
Từ năm 1930 đến năm 1941, tuy hoạt
động ở nước ngoài nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn chỉ đạo sát sao phong trào cách mạng
trong nước. Trong khoảng thời gian ấy, Người có lúc ở Liên Xô, Trung Quốc, từng
bị kẻ thù bắt giam ở Hồng Kông. Cuối năm 1932, Người được trả tự do, sau đó đến
Liên Xô học tại trường Quốc Tế Lênin.
Năm 1938, Người trở về Trung Quốc
chủ yếu hoạt động ở vùng Quảng Tây cho đến năm 1941 thì về nước trực tiếp chỉ
đạo cách mạng Việt Nam. Người triệu tập Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, xác định đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc, chỉ đạo thành lập
mặt trận Việt Minh, sáng lập Báo Việt Nam độc lập, tổ chức lực lượng vũ trang,
xây dựng căn cứ địa cách mạng, lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi Cách mạng
tháng Tám năm 1945.
Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba
Đình, Người đọc Tuyên ngộn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
5. Giai đoạn 1945-1954
Những năm 1945-1946, Người cùng
Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng non
trẻ, đối phó với thù trong, giặc ngoài, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua tình
thế "ngàn cân treo sợi tóc", tổ chức Tổng tuyển cử trong cả nước, bầu
Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I
(1946) đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tại Đại hội lần thứ II của Đảng
(1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã giành thắng lợi
vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, kết thúc bằng
chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, đưa
miền bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
6. Giai đoạn 1954 – 1969
Miền Bắc được giải phóng, nhưng đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai thực hiện âm mưu chia cắt đất nước ta lâu dài, biến
nơi đây thành thuộc địa kiểu mới. Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch tiếp tục lãnh
đạo nhân dân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đại hội lần thứ III của Đảng năm
1960 đã bầu lại Chủ tịch Hồ Chí Minh làm chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II, khóa III bầu Người là làm Chủ tịch nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cùng với Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đường lối đúng đắn, lãnh đạo cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
thắng lợi; đặt nền móng và không ngừng vun đắp tình hữu nghị giữa dân tộc Việt
Nam với các dân tộc trên thế giới, giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với các Đảng
Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế.
Ngày 2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh
qua đời, để lại muôn vàn tiếc thương cho toàn Đảng, dân tộc
Việt Nam và nhân dân thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại
của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng ngời cho chúng ta học tập. Tên
tuổi của Người đã đi vào lịch sử cách mạng thế giới như là người khởi xướng
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa trong thế kỷ XX.
Năm 1990, tổ chức Giáo dục, Khoa học
và Văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO) đã tôn vinh Người danh hiệu: Anh hùng
giải phóng dân tộc, Danh nhân Văn hóa thế giới.
II. Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng
giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng
giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế.
Giữa lúc phong trào cách mạng
Việt Nam bế tắc về đường lối và tổ chức lãnh đạo, Nguyễn Ái Quốc đã
tìm ra con đường cách mạng vô sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã gắn
kết thành một khối, phát huy cao độ sức mạnh toàn dân tộc, làm nên thắng lợi
cách mạng tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Trong bản
Tuyên ngôn độc lập đọc ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố
trước đồng bào quốc dân và toàn thế giới: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự
do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập".
Ngay sau khi giành độc lập, chính
quyền cách mạng non trẻ của ta đứng trước tình thế vô cùng khó khăn, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cùng toàn Đảng sáng suốt đề ra đường lối đúng đắn, chèo lái con
thuyền cách mạng vượt qua thác ghềnh, bảo vệ Đảng và giữ vững chính quyền cách
mạng. Tiếp đó Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng toàn Đảng xây dựng đường lối "vừa
kháng chiến vừa kiến quốc" lãnh đạo nhân dân phát huy cao độ lòng yêu
nước, khí phách anh hùng, đánh thắng chiến tranh xâm lược của thực dân pháp và
đế quốc Mỹ, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đưa cả nước đi
lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng
cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa
quốc tế vô sản. Ngay từ khi đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, ánh sáng chân lý của
thời đại, tấm lòng của Người luôn hướng về nhân dân các dân tộc bị áp bức,
chiến đấu không mệt mỏi vì hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc. Người đã hết
lòng, hết sức xây dựng sự đoàn kết nhất trí giữa các Đảng Cộng sản anh em trên
cơ sở chủ nghĩa Mác - LêNin và chủ nghĩa quốc tế Vô sản trong sáng, không ngừng
vun đắp quan hệ gắn bó, hữu nghị giữa các dân tộc Đông Dương, các nước láng
giềng, cống hiến xuất sắc cả về lý luận và thực tiễn cho phong trào cộng sản và
phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chiến
sĩ lỗi lạc, kiên cường, trong sáng, suốt đời chiến đấu cho hòa bình, độc lập,
tự do, hạnh phúc và tiến bộ xã hội.
Đi theo con đường Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chọn, thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, Đảng ta kiên định những
quan điểm có tính nguyên tắc, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh trước yêu cầu mới; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo nhân dân tiến hành
sự nghiệp đổi mới đất nước, tích cực hội nhập quốc tế.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đặc
biệt coi trọng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không
ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nên dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Đổi mới vì lợi ích của
nhân dân, dựa vào dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất
phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới, phát huy cao độ với nội lực, đồng thời
tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta
có sự thay đổi cơ bản và toàn diện, giành được những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử, càng chứng tỏ đường lối lãnh đạo của Đảng rất đúng đắn sáng tạo
và phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh đã dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vượt qua khó khăn, thử thách
tiến lên giành thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc
và công cuộc đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế.
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Danh nhân
văn hóa thế giới
Sự tôn vinh của UNESCO đã khẳng định
những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho dân tộc
Việt Nam và thế giới. Văn hóa Hồ Chí Minh là sự kết tinh tinh hoa văn
hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời Người không ngừng sáng tạo
văn hóa. Văn hóa Hồ Chí Minh được hình thành trong cái nôi văn hóa dân tộc,
nhất là trong quá trình Người đi tìm đường cứu nước và lãnh đạo cách mạng
Việt Nam. Quá trình này nằm trong bối cảnh văn hóa Việt Nam có
sự giao lưu, tiếp biến với văn hóa nhân loại.
Sự nghiệp văn hóa lớn nhất, quan
trọng nhất của Hồ Chí Minh là đã tìm được con đường cứu nước đúng đắn và lãnh
đạo thành công sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho
đất nước, hạnh phúc cho nhân dân. Sự nghiệp giải phóng dân tộc do Hồ Chí Minh
lãnh đạo đã đem lại địa vị xứng đáng cho văn hóa dân tộc Việt Nam. Không
chỉ vậy, sự nghiệp này còn có ý ngĩa to lớn đối với nền văn hóa thế giới, đã
chỉ ra cho nhân dân các nước thuộc địa con đường đứng lên đập tan xiềng xích nô
lệ, giành độc lập, tự do cho đất nước mình, từ đó góp phần vào việc xóa bỏ chế
độ thuộc địa trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là
danh nhân văn hóa thế giới đã góp phần không chỉ tạo ra một chế độ mới, một
thời đại mới mà còn tạo ra một nền văn hóa mới trong lịch sử phát triển của dân
tộc Việt Nam, góp phần to lớn vào sự phát triển chung của văn hóa nhân loại.
Nhà thơ Xô Viết Ôxip Mandextam đã viết: Từ Nguyễn Ái Quốc tỏa ra một nền văn
hóa, không phải là văn hóa Châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa của tương lai….
Qua cử chỉ cao thượng, tiếng nói trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi như thấy
được ngày mai, như thấy được viễn cảnh trời yên bể lặng của tình hữu ái toàn
thế giới bao la như đại dương.
Thông qua những năm tháng hoạt động
cách mạng, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Tây gắn kết với tinh
hoa văn hóa phương Đông, trong đó đặc biệt là những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin cùng những giá trị tiến bộ của văn hóa Nho giáo, Phật giáo……
phát triển những giá trị văn hóa mới - Văn hóa Hồ Chí Minh.
Đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
văn hóa không chỉ ở phương diện lý luận mà còn tỏa sáng trong mỗi việc làm,
từng cử chỉ, từng mối quan hệ với đồng bào, đồng chí và bạn bè quốc tế. Cái cốt
lõi trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân, thương yêu
con người, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Người đề cao lý tưởng
cứu nước, cứu dân, "Tổ quốc trên hết", "Dân tộc trên hết",
"Không có gì quý hơn độc lập tự do". Hồ Chí Minh quan niệm: ở đời và
làm người là phải yêu nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức.
Việc gì có lợi cho dân thì phải làm cho kì được. Việc gì hại cho dân thì phải
hết sức tránh. Đó là nhân sinh quan, triết lý sống nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh .
Cả cuộc đời hoạt động cách mạng,
Người đã chiến đấu chống áp bức, bất công, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc
cho nhân dân, cho dân tộc và còn mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Người đã hiến
dâng cả cuộc đời cho dân tộc, cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Trong những giá trị trường tồn, có di sản tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, đó là:
về chủ nghĩa yêu nước; về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; về nhà nước xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; về xây dựng Đảng thật sự trong sạch,
vững mạnh; về đại đoàn kết dân tộc; về đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô tư…..
Với những cống hiến xuất sắc cho dân tộc và cho nhân loại tiến bộ, năm 1990, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO) ra Nghị quyết 24C/1865 về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới. Nghị quyết khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Những đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật chính là sự kết tinh truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Những tư tưởng của Người là hiện thân cho những khát vọng của các dân tộc có mong muốn được khẳng định bản sắc văn hoá của mình và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau…. Đại hội đồng UNESCO đã khuyến nghị các nước thành viên "cùng tham gia kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng việc tổ chức các hoạt động cụ thể để tưởng niệm Người, qua đó làm cho mọi người hiểu rõ tầm vóc vĩ đại của tư tưởng và những cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của Người".