Phong phú kho tàng âm nhạc
dân tộc
Việt Nam là một quốc gia đa sắc tộc, mỗi một dân tộc đều có phong tục, tập quán
riêng, ngôn ngữ tiếng nói riêng, trong đó có nền âm nhạc mang sắc thái riêng,
bao gồm kho tàng dân ca, nhạc cụ phong phú, đặc sắc gắn liền với đời sống tinh
thần, vật chất và tâm linh của đồng bào.
Lấy ví dụ, với đồng bào người
Thái, điệu khắp – một làn điệu dân ca đặc trưng, giàu bản sắc văn hóa đã trở
thành nét văn hóa không thể thiếu được trong các
cuộc vui, lễ hội, đám cưới, lễ mừng nhà mới, mừng cơm mới, mừng năm mới… Có
người từng ví, mỗi khi tiếng khắp cất lên sẽ làm rạo rực, xao xuyến lòng người.
Tiếng khắp khiến người đang ăn ngừng cầm đũa, buông bát. Người đang nói, đang
cười cũng phải ngừng câu chuyện, người đang uống rượu cũng buông cần, đặt chén.
Tiếng khắp khiến xa cũng thành gần, khiến người lạ cũng thành quen…
Tương tự, làn điệu H’ri - một làn điệu dân ca Chăm xuất phát từ trong lao động,
sản xuất được đồng bào Chăm sử dụng rộng rãi trong ngày hội làng, đám ma, đám
cưới… Trong sinh hoạt gia đình, làn điệu H’ri là lời ru người mẹ dùng căn dặn
con về điều hay, lẽ phải và dạy con sau này lớn lên làm người có ích cho xã
hội. Trong những đêm trăng và đêm hội làng, các chàng trai, cô gái cũng sử dụng
làn điệu H’ri để hát đối đáp, trao lời thề, lời nguyện ước…
Từ cuối những năm 60 của thế kỷ trước, rất nhiều bài dân ca của đồng bào các
dân tộc được phát trên đài phát thanh thời đó đã in sâu vào ký ức nhiều thế hệ
người Việt Nam. Có thể kể đến bài “Mưa rơi” dân ca Khơ Mú, bài “Ru em” dân ca
Xơ Đăng, bài “Inh lả ơi” dân ca Thái, bài “Con gà gáy le te” dân ca Cống
Khao...
Việt Nam có 54 dân tộc, mỗi một dân tộc, đều có những nét độc đáo riêng biệt về
đặc điểm của âm nhạc dân tộc mình, như hát giao duyên đối đáp, hát đồng dao;
hát Then, Mo của người Dao, Tày, Thái; hát Tang ca, hát ống của người Mông; múa
chiêng, trống của người Mông, Dao; đàn tính của người Tày, Thái; cồng chiêng
của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên…
Có thể khẳng định, kho tàng âm nhạc cổ truyền của đồng bào các dân tộc thiểu số
vô cùng phong phú, đặc sắc, góp phần tạo nên bản sắc dân tộc trong âm nhạc Việt
Nam. Đặc biệt, trong quá trình cộng cư và giao lưu tiếp biến văn hóa lâu đời
giữa các dân tộc ở các vùng miền, dẫn đến âm nhạc của các dân tộc càng thêm đa
dạng. Cũng là then Tày, nhưng then Tày ở Hà Giang, khác với then Tày Tuyên
Quang, Bắc Kạn, Yên Bái… Tương tự, ở nhiều loại hình âm nhạc khác như cồng
chiêng, âm nhạc Chăm,… ở mỗi địa phương lại có những nét riêng, hoặc một màu
sắc riêng.
Theo Phó giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Bình Định, nguyên Viện trưởng Viện Âm nhạc
Việt Nam, âm nhạc của các dân tộc thiểu số có vai trò quan trọng và là yếu tố
quyết định tạo ra sự đa sắc, đa hương cho vườn hoa nghệ thuật âm nhạc truyền
thống. Các dân tộc ít người có những tư duy về vấn đề giai điệu, điệu thức,
điệu quãng, nhạc cụ và cách thể hiện riêng. Điều đó góp phần tạo nên bản sắc
riêng từng dân tộc, tạo nên sự phong phú đa dạng của âm nhạc dân tộc Việt Nam
trong khu vực và trên thế giới.
Gìn giữ, bảo tồn âm nhạc dân tộc
Có một kho tàng âm nhạc dân tộc phong phú, song do nhiều nguyên nhân chủ quan
và khách quan khác nhau, đặc biệt là trong điều kiện đất nước hội nhập, phát
triển, cùng với sự phát triển của công nghệ, điều kiện sống cũng như môi trường
sinh hoạt của đồng bào các dân tộc thiểu số có những thay đổi, một bộ phận âm
nhạc của các dân tộc thiểu số đang gặp phải những khó khăn, thách thức, đứng
trước nguy cơ mai một.
Lấy ví dụ từ loại hình hát ống của đồng bào Mông tại Chiềng Tương, Yên Châu,
Sơn La. Trước đây, nhóm nam nữ tham gia hình thức dân ca này sử dụng hai chiếc
ống, nối với nhau bằng một sợi dây làm công cụ để chuyển tải âm thanh. Người
hát sẽ hát vào một ống, người nghe kéo căng sợi dây và úp ống còn lại vào tai.
Cứ như vậy, họ thay nhau hát những câu giao duyên, trao đổi tình cảm từ bãi
nương này sang bãi nương khác. Nhưng bây giờ, họ đã có giải pháp tốt hơn, là sử
dụng điện thoại di động hoặc vào mạng xã hội… còn hình thức hát ống ở đây đã
mai một.
Nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc thừa nhận, trước đây, ở các bản người Tày,
Thái, Mông, Dao…, hầu hết mọi người đều biết hát dân ca, chơi nhạc cụ truyền
thống và trình diễn các bài múa, nhưng đến nay, số nghệ nhân này còn rất ít,
phần lớn là những người đã cao tuổi, còn giới trẻ đã không mấy mặn mà với âm
nhạc dân tộc, thậm chí có nơi, người trẻ còn không biết tiếng của đồng bào dân
tộc mình, nên không biết hát giao duyên, không biết hát các làn điệu dân ca của
đồng bào các dân tộc mình, dẫn đến nguy cơ mai một âm nhạc dân tộc.
Trước những nguy cơ mai một các loại hình âm nhạc truyền thống của đồng bào các
dân tộc, vấn đề bảo tồn, gìn giữ, phát huy giá trị âm nhạc truyền thống các dân
tộc đang được đặt ra cấp bách, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay.
Hầu hết, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian đều cho rằng, để bảo tồn âm nhạc
dân tộc, ngoài việc xây dựng các cơ chế, chính sách, các đề án, chương trình
bảo tồn âm nhạc dân tộc, cần quan tâm hơn nữa đến các nghệ nhân, bởi nghệ nhân
là những người nắm giữ di sản âm nhạc cổ truyền, là những người hiểu biết sâu
sắc nhất về phong tục, tập quán, tính cách tộc người, nên họ biết tìm ra phương
pháp phù hợp nhất, khả thi nhất để tập hợp cả tộc người cùng chung tay gìn giữ
âm nhạc cổ truyền. Nghệ nhân cũng là những người có khả năng truyền dạy di sản
cho các thế hệ sau, là người cải biến, cầm lái xu hướng đổi thay của âm nhạc
dân gian dân tộc trong từng thời kỳ.
Nhà nghiên cứu âm nhạc Đặng Hoành Loan cho rằng "vấn đề bảo tồn, phát huy
nghệ thuật dân gian, trong đó có âm nhạc dân gian các dân tộc đã được nói đến
từ rất lâu. Các hội thảo báo cáo nhiều đến nỗi có người khi nghe đến cụm từ này
đã bật thốt lên: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Nhưng dù vậy, chúng ta vẫn cần
phải nói tiếp, bởi việc bảo tồn, phát huy vốn di sản văn hóa nghệ thuật cổ
truyền cũng vận động, cũng biến đổi theo nhịp sống, cách sống của mỗi cộng đồng
dân tộc, theo cách tư duy văn hóa, chính trị ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ. Vì
thế, chúng ta vẫn phải bàn về bảo tồn – một khi chúng ta còn nhu cầu giữ lại
những di sản phi vật thể quý giá này trong đời sống xã hội".